6:33 am thứ năm, ngày 21 tháng bảy năm 2011- chuyên mụcTin Tức|Thế Giới|
|
- Trong suốt 22 thế kỷ, từ các đời Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế, Tống Thần Công, Minh Thành Tổ đến giữa thế kỷ XX (1951), tài liệu chính sử Trung Quốc đã chưa bao giờ cho thấy chủ quyền của họ đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (mà họ gọi là Tây Sa và Nam Sa) trên Biển Đông của Việt Nam (mà họ gọi là Biển Hoa Nam). Trong khi đó, không ít thư tịch cổ Trung Hoa, do chính người Trung Hoa ghi lại trong lịch sử đã thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Theo luật pháp quốc tế, muốn xác lập chủ quyền lãnh thổ trên biển và hải đảo phải hội đủ 3 điều kiện: phải có sự hành xử chủ quyền của nhà nước; một cách liên tục và lâu dài; được sự thừa nhận của các quốc gia duyên hải, đặc biệt là các quốc gia tiếp cận và đối diện.
Những tài liệu chính sử của Trung Quốc cho thấy cho đến thế kỷ XIX người Trung Quốc cũng chỉ đi ngang qua các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, không hề có việc tuyên bố, hành xử chủ quyền lâu dài và liên tục tại các đảo này. Một tài liệu đáng tin cậy về chính sử Trung Hoa là cuốn “Lịch sử Trung Quốc thời trung cổ” do Hàn Lâm Viện Trung Quốc xuất bản tại Đài Bắc năm 1978, học giả Hsieh Chiao-Mintrong bài “Nghiên cứu về lịch sử và địa lý” nhận định về cuộc thám hiểm của Trung Hoa tại đại dương như sau: “Suốt chiều dài lịch sử, về sự phát triển văn hóa và khoa học, dân tộc Trung Hoa không tha thiết với đại dương”. Theo các tài liệu lịch sử chính thống “thảng hoặc triều đình Trung Hoa cũng gởi những đoàn thám hiểm đến Nhật Bản trong các thế kỷ thứ III và thứ II (TCN) và tại Đông Nam Á, Ấn Độ, Ba Tư và Phi Châu trong thế kỷ XV. Điểm rõ nét nhất là tại Thái Bình Dương có rất ít, nếu không nói là không có những vụ xâm nhập quy mô của Trung Hoa” suốt chiều dài lịch sử (từ đời nhà Tần thế kỷ thứ III TCN đến nhà Thanh từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XX).
Những tài liệu chính sử của Trung Quốc cho thấy cho đến thế kỷ XIX người Trung Quốc cũng chỉ đi ngang qua các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, không hề có việc tuyên bố, hành xử chủ quyền lâu dài và liên tục tại các đảo này. Một tài liệu đáng tin cậy về chính sử Trung Hoa là cuốn “Lịch sử Trung Quốc thời trung cổ” do Hàn Lâm Viện Trung Quốc xuất bản tại Đài Bắc năm 1978, học giả Hsieh Chiao-Mintrong bài “Nghiên cứu về lịch sử và địa lý” nhận định về cuộc thám hiểm của Trung Hoa tại đại dương như sau: “Suốt chiều dài lịch sử, về sự phát triển văn hóa và khoa học, dân tộc Trung Hoa không tha thiết với đại dương”. Theo các tài liệu lịch sử chính thống “thảng hoặc triều đình Trung Hoa cũng gởi những đoàn thám hiểm đến Nhật Bản trong các thế kỷ thứ III và thứ II (TCN) và tại Đông Nam Á, Ấn Độ, Ba Tư và Phi Châu trong thế kỷ XV. Điểm rõ nét nhất là tại Thái Bình Dương có rất ít, nếu không nói là không có những vụ xâm nhập quy mô của Trung Hoa” suốt chiều dài lịch sử (từ đời nhà Tần thế kỷ thứ III TCN đến nhà Thanh từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XX).
Hoàng triều dư địa toàn đồ (1728, 1729) cho thấy cương giới phía Nam Trung Quốc chỉ đến phủ Quỳnh Châu (Hải Nam) |
Tiền Hán Thư (206 TCN) do Ban Cố (32-92) đời Đông Hán (25-220) soạn vào những năm Kiến Sơ (76-83) đời Chương Đế (76-88). Vào thời kỳ này, có thể nói rằng theo chính sử, người Trung Quốc chưa biết gì về các quần đảo ở Biển Đông (mà họ gọi là Biển Hoa Nam hay Nam Hải). Những ghi chép trong bộ Tiền Hán Thư chỉ nhắc đến đảo Hải Nam. Đoạn này được ghi chép như sau: “Từ huyện Từ Văn, Hợp Phố đi vào biển ở phía Nam, được đại châu (đảo lớn), Đông, Tây, Nam, Bắc vuông ngàn dặm. Năm đầu niên hiệu Nguyên Phong (110 TCN) đời Vũ Đế (140-87 TCN) lấy làm quận Đảm Nhĩ, Châu Nhai. Dân đều mặc vải như vỏ chăn khoét giữa chùm qua đầu khi mặc. Đàn ông cày ruộng, trồng lúa, đay, gai, đàn bà trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa. Không có ngựa và hổ, dân có 5 gia súc, trên núi có nai, hoãng. Binh thì dùng giáo, mộc, đao, cung, nỏ, tên tre hoặc mũi bằng xương. Ban đầu là quận huyện, quan lại là người Trung Quốc phần nhiều nhũng nhiễu, nên dân mấy năm một lần chống lại. Đời Nguyên Đế (48-33 TCN) bèn bãi bỏ”. Như vậy, Tiền Hán Thư chỉ nhắc đến đảo Hải Nam và sự kiện chinh phục đảo Hải Nam năm 110 TCN của nhà Hán. Sự kiện chinh phục đảo Hải Nam chứng tỏ đảo này không thuộc nhà Hán. Người dân bản xứ được nhắc đến ở đây là các tộc người đã đứng dậy chống lại ách đô hộ của nhà Hán, buộc quân Hán xâm lược phải rời bỏ đảo vào thời gian đó.
Đường Thư (608-907) do Âu Dương Tu (1007-1072) biên soạn trong những năm 1054-1060. Trong bộ Đường Thư này, có hai đoạn liên quan đến địa lý hành chính của đảo Hải Nam. Đoạn thứ nhất về sự kiện xảy ra năm thứ 5 niên hiệu Trinh Nguyên. Đoạn này viết như sau: “Tháng 10, Lĩnh Nam tiết độ sứ (thống đốc) Lý Phục lấy lại Quỳnh Châu”. Về sự kiện thống đốc đạo Lĩnh Nam (nay là Quảng Đông, Quảng Tây) đem quân lấy lại đảo Hải Nam năm Trinh Nguyên thứ 5 (789), sau 100 năm dân bản địa nổi dậy làm chủ đảo này (từ năm 666 – theo Thái Bình Hoàn Vũ Ký của Nhạc Sử đời Tống), một số học giả Trung Quốc đã xuyên tạc là “các đảo Nam Hải từ năm thứ 5 niên hiệu Trinh Nguyên nhà Đường đã thuộc phạm vi quản hạt của Trung Quốc (Hàn Chấn Hoa, Ngã Quốc Nam Hải Chư Đảo Sử Liệu Hội Biên, 1988) hoặc quần đảo Trường Sa (Nam Sa) đã được “sáp nhập vào phủ Quỳnh Châu năm thứ 5 niên hiệu Trinh Nguyên đời Đường” (Phan Thạch Anh, bài đăng trên Tạp chí Window, Hồng Kông, ngày 3 tháng 9 năm 1993).
Hoàng Triều nhất thống dư địa tổng đồ, bản đồ tổng quát đất đai thống nhất của nhà Thanh trong tập Hoàng Triều nhất thống dư địa toàn đồ được thực hiện năm 1894. Phần cực Nam lãnh thổ Trung Quốc là đảo Hải Nam |
Đoạn thứ hai viết về quy chế hành chính đảo Hải Nam, cụ thể như sau: “Nhai Châu, Quỳnh Sơn quận: Phủ đô đốc đặt năm thứ 5 niên hiệu Trinh Quán (631) tại huyện Quỳnh Sơn, tách từ Nhai Châu. Từ niên hiệu Càn Phong (666-668) về sau bị mất vào người Man trong sơn động. Năm thứ 5 niên hiệu Trinh Nguyên (789) Lĩnh Nam tiết độ sứ Lý Phục đánh dẹp, lấy lại được. Đồ cống có vàng. Gồm 649 hộ, 5 huyện là Quỳnh Sơn, Lâm Cao, Tăng Khẩu, Lạc Hội, Nhan La. Qua Đường Thư, người ta biết được rằng đảo Hải Nam được chia làm 5 đơn vị hành chính và tên từng đơn vị hành chính này. Đường Thư không chép bất kỳ nơi nào, ngoài các vùng đất trên đảo Hải Nam, thuộc lãnh thổ Trung Quốc.
Tống Sử (960-1297) do Tôgtoha, đại thần thừa tướng nhà Nguyên soạn năm Chí Chính thứ 3 (1343). Chương Dư địa chí, phần về địa lý hành chính đảo Hải Nam được chép như sau: “Quỳnh Sơn hạ, Quỳnh Sơn quận, Tĩnh Hải quân tiết độ sứ: Năm Đại quan thứ 1 (1107), đặt Trấn Châu ở Di động Lê Mẫu Sơn, cho quân ngạch là Tĩnh Hải. Năm Chính Hoà thứ 1 (111), bỏ Trấn Châu và ngạch quân, trở lại như cũ. Gồm 8963 hộ. Cống vàng, cau, có 4 huyện là Quỳnh Sơn, Văn Xương, Lâm Cao, Lạc Hội. Như vậy, qua sử của nhà Tống liên quan đến cương vực phía Nam của Trung Quốc, chúng ta biết được đảo Hải Nam thời kỳ đó có 4 đơn vị hành chính cấp châu và quân. Quân trong thời kỳ này là đơn vị hành chính cấp châu (trên cấp huyện). Chúng ta cũng biết rằng không có đơn vị hành chính nào trên đảo Hải Nam có tên là“Thiên lý Trường Sa” hay “Vạn lý Thạch Đường”. Trong đời Nhà Tống, trong hai thế kỷ thứ 10 và 11, quân Đại Việt đã 3 lần đánh thắng quân Trung Quốc: Lần thứ nhất, năm981, Lê Đại Hành phá đội hải quân của Lưu Trừng tại Bạch Đằng Giang; trong hai năm 1075 và 1076, Lý Thường Kiệt lại đánh thắng quân Nhà Tống tại Quảng Đông, Quảng Tây và trên sông Như Nguyệt và sông Phú Lương. Sau 3 phen thất trận, theo trình tấu của hoàng thân Triệu Nhữ Quát, vua Tống Thần Tông đã theo chính sách Trọng Võ Ái Nhân (thận trọng việc võ bị, thương xót mạng người, không phơi binh nơi lam chướng) để thừa nhận nền độc lập và sự toàn vẹn lãnh thổ của Đại Việt.
Đại Thanh Nhất Thống Toàn Đồ, đảo nhỏ ở phía dưới là Hải Nam, gần đó bên trái là Giao Chỉ, đảo lớn hơn bên phải là Đài Loan |
1 nhận xét:
Cần bảo vệ biển đảo
Đăng nhận xét