Thứ Ba, 27 tháng 3, 2012


Trung Quốc phạt ngư dân Việt trên vùng biển Việt

Báo Trung Quốc dẫn lời giới chức nước này nói sẽ xử phạt mỗi ngư dân Việt Nam, bị Trung Quốc giữ khi đang đánh cá ở quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, 70.000 nhân dân tệ, tức là hơn 200 triệu đồng.
'Trung Quốc phải bồi thường cho ngư dân Việt Nam'
Việt Nam yêu cầu Trung Quốc thả ngay ngư dân và tàu cá

Người thân của ngư dân bị Trung Quốc bắt giữ đang khắc khoải chờ tin. Ảnh: Trí Tín
Thông tin này được mạng Tin tức Trung Quốc, dẫn lời Phó Cục trưởng Cục Ngư chính Nam Hải Lưu Thiêm Vinh, đưa ra ngày hôm qua.

Trung Quốc đã bắt và hiện giam giữ 21 ngư dân cùng hai tàu cá của Việt Nam. Các tàu này lần lượt mang số hiệu QNg 66101TS và QNg 66074TS.

Ngày 21/3, người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lương Thanh Nghị nêu rõ Việt Nam kiên quyết phản đối hành động bắt giữ tàu và ngư dân Việt Nam của phía Trung Quốc, yêu cầu phía Trung Quốc thả ngay và vô điều kiện các ngư dân và tàu cá nói trên, chấm dứt việc bắt giữ, cản trở ngư dân Việt Nam tại các vùng biển của Việt Nam.

“Quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Việc Trung Quốc bắt giữ, cản trở ngư dân Việt Nam đang hoạt động nghề cá tại vùng biển thuộc quần đảo Hoàng Sa đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền, các quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam," ông nói.

Theo người phát ngôn, đại diện Bộ Ngoại giao Việt Nam đã gặp Đại Sứ quán Trung Quốc trao công hàm nêu rõ lập trường của Việt Nam và đang tiếp tục đấu tranh để giải quyết vụ việc, bảo đảm lợi ích chính đáng của ngư dân Việt Nam.
(TTXVN)

Thứ Hai, 26 tháng 3, 2012

rfi Tiếng Việt - TS Nguyễn Nhã phản bác Trung Quốc về Hoàng Sa-Trường Sa


TS Nguyễn Nhã phản bác Trung Quốc về Hoàng Sa-Trường Sa
Một trong những đảo thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Một trong những đảo thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Reuters
Thanh Phương
Bộ phim tư liệu “Một đời nghiên cứu”, nói về những đóng góp của tiến sĩ Nguyễn Nhã trong việc nghiên cứu về chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa vừa được tặng thưởng giải Cánh diều bạc 2012.
Giải này không chỉ là tặng thưởng cho người thực hiện bộ phim, đạo dìễn Phạm Xuân Nghị (Hãng Phim truyền hình TP Hồ Chí Minh), mà còn là sự ghi nhận, tuy là quá muộn màng, công lao quý báu của ông Nguyễn Nhã, một nhà sử học giàu lòng yêu nước, đã bỏ ra rất nhiều năm để nghiên cứu về chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như chủ quyền biển đảo của Việt Nam nói chung.
Luận án tiến sĩ của ông “Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa”, được trình vào năm 2003, cho tới nay vẫn còn nguyên giá trị.
Tiến sĩ Nguyễn Nhã thuyết trình về Hoàng Sa - Trường Sa tại Hà Nội ngày 24/9.
Những đóng góp của tiến sĩ Nguyễn Nhã càng có giá trị khi mà vấn đề tranh chấp chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa càng thêm gay gắt, với những hành động gây hấn của Trung Quốc trên Biển Đông, cũng như qua những bài báo đả kích Việt Nam đăng trên một số phương tiện truyền thông của Trung Quốc.
Bộ phim tư liệu “Một đời nghiên cứu” được trao giải đúng vào lúc mà Biển Đông tiếp tục dậy sóng, với vụ Trung Quốc ngày 3/3 vừa qua bắt giữ 21 ngư dân Việt Nam và đòi tiền chuộc. Việt Nam đã kêu gọi Bắc Kinh phóng thích ngay các ngư dân và đề nghị gia đình của họ đừng nộp tiền chuộc cho Trung Quốc. Nhưng Bắc Kinh thì lại lớn tiếng yêu cầu Việt Nam ngưng “đánh bắt cá trộm bất hợp pháp” trong khu vực mà họ cho là thuộc chủ quyền Trung Quốc trên Biển Đông.
Trước đó, ngày 22/2, một tàu cá của ngư dân Quảng Ngãi đã bị tàu chiến Trung Quốc tấn công và tước đoạt toàn bộ tài sản, ngư cụ, đánh đập ngư dân. Gần đây nhất, theo tin từ báo chí trong nước, hai chiếc tàu Trung Quốc vừa bị phát hiện xâm nhập trái phép vịnh Nha Trang ngày 23/3...
Những hành động mới đây của Trung Quốc dĩ nhiên đã gây phẫn nộ dư luận Việt Nam, nhưng người dân Việt Nam nay không còn được xuống đường để phản đối Bắc Kinh. Thậm chí, kế hoạch vinh danh, tri ân những chiến sĩ hy sinh ở Gạc Ma, Trường Sa ngày 14/3/1988, theo dự kiến lẽ ra đã được tổ chức đúng ngày 14/3/2012, nhưng cuối cùng chính quyền lại ra lệnh hủy bỏ buổi lễ này.
Trong khi đó, báo chí Trung Quốc, cụ thể là tờ Hoàn Cầu Thời Báo, ngày 20/3 vừa qua, tiếp tục đả kích Việt Nam qua bài “Luật rừng vẫn ngự tri”, xem việc chính quyền tỉnh Khánh Hoà cho phép một số chư tăng của tỉnh này ra phục hồi Phật sự Trường Sa là một hành động "thách thức chủ quyền của Trung Quốc".
Trả lời phỏng vấn RFI hôm nay, tiến sĩ Nguyễn Nhã phản bác những lập luận nói trên của Hoàn Cầu Thời Báo. Sau đây mời quý vị theo dõi phần phỏng vấn.
Tiến sĩ Nguyễn Nhã
26/03/2012

BÁO ĐẠI ĐOÀN KẾT - “Sức mạnh mềm” của Việt Nam (13/02/2012)


“Sức mạnh mềm” của Việt Nam (13/02/2012)
"Sức mạnh mềm” của Việt Nam từng được vận dụng vô cùng khéo léo trong các cuộc chiến chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước của cha ông ta hàng ngàn năm qua. Ngày nay, khái niệm "sức mạnh mềm” của Việt Nam lại được sử dụng khéo léo trong cuộc đấu tranh chống "đường lưỡi bò" rất gần gũi với quan điểm "dĩ đức phục nhân”, lấy đức để thu phục lòng người trong tư tưởng phương Đông. Trong lịch sử giữ nước, có thể coi Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là áng văn đỉnh cao thể hiện "sức mạnh mềm” của người Việt Nam với tư tưởng "Đem đại nghĩa thắng hung tàn; Lấy chí nhân thay cường bạo”.


Ngư dân Việt Nam từ bao đời qua bám biển, 
góp phần bảo vệ chủ quyền thiêng liêng
 của người Việt Nam trên Biển Đông

Trong Bình Ngô Sách dâng lên Lê Lợi trình bày sách lược đánh đuổi quân Minh, Nguyễn Trãi đã vạch ra nền tảng tư tưởng cho toàn bộ quá trình hình thành, phát triển và thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn bằng chiến lược phối hợp nhịp nhàng ba mặt trận là chính trị, binh vận và ngoại giao, nêu cao chính nghĩa dân tộc và sức mạnh quyết định của nhân dân để giành chiến thắng. Đó là kế đánh vào lòng người, không xông trận mà vẫn khuất phục được đối phương (Ngã mưu phạt nhi công tâm, bất chiến tự khuất). Chiến lược hòa bình của ông cha ta được thể hiện một cách nhuần nhuyễn trong cuộc kháng chiến chống quân Minh của nghĩa quân Lam Sơn. Khi 10 vạn quân Vương Thông bị quân ta vây hãm ở thành Đông Quan, nếu Lê Lợi và Nguyễn Trãi hạ lệnh tấn công, chắc chắn quân giặc sẽ bị tiêu diệt sạch. Nhưng tư tưởng "lấy chí nhân thay cường bạo”, bằng chiến lược hòa bình Lê Lợi và Nguyễn Trãi chủ trương "dập tắt muôn đời chiến tranh – mở nền thái bình muôn thuở” đã mở đường cho quân Minh rút về nước với Hội thề Đông Quan lịch sử, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến. Đó là một cách kết thúc chiến tranh độc đáo, sáng tạo, sáng ngời nhân nghĩa gắn liền với chiến lược hòa bình của ông cha ta.

GS Joshep Nye (cha đẻ của khái niệm "sức mạnh mềm”) trả lời báo giới khi tới thăm Việt Nam năm 2007 đã từng nhận định, Việt Nam có nhiều thứ có thể thu hút, lôi kéo các quốc gia khác như sự nổi danh từ lịch sử đấu tranh giành độc lập bảo vệ chủ quyền, sự chuyển đổi thành công sang một nền kinh tế có mức tăng trưởng ấn tượng... Ông cho rằng, những điều này đã giúp gia tăng "sức mạnh mềm” của Việt Nam. Điểm hấp dẫn nhất của "sức mạnh mềm” Việt Nam hiện nay nằm ở tinh thần tự chủ, độc lập dân tộc và phát triển kinh tế. Cũng theo GS Joshep Nye, văn hóa của Việt Nam luôn hấp dẫn, có sức lôi cuốn các nước phương Tây, điều này thật quan trọng vì "có 3 nguồn lực chính để tạo nên "sức mạnh mềm”: một là văn hoá quốc gia, hai là hệ giá trị quốc gia và ba là chính sách quốc gia”.

Do điều kiện địa lý, Việt Nam trở thành chướng ngại tự nhiên của Trung Quốc trên con đường chiếm lĩnh Biển Đông để vươn ra Thái Bình Dương. Lịch sử dựng nước và giữ nước của cha ông ta đã để lại nhiều bài học quý giá và phù hợp với thực tế khách quan của một đất nước khiêm nhường buộc phải tồn tại và phát triển bên cạnh một người hàng xóm khổng lồ và đầy tham vọng. Ngày nay, trước sự xuất hiện của một siêu cường Trung Quốc đang lên, tham vọng bành trướng và cách hành xử hung hăng của họ trong thời gian gần đây đã gây quan ngại sâu sắc cho cộng đồng thế giới, đặc biệt là tình hình an ninh và tự do hàng hải trên Biển Đông. Tuy nhiên, thực tế đó, theo các nhà phân tích lại tạo thêm một thời cơ thuận lợi cho Việt Nam, với truyền thống độc lập tự chủ, yêu chuộng hòa bình và khát vọng vươn lên đang được minh chứng bằng sự đổi mới mạnh mẽ hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh. Có thể nói, tình thế hiện nay thúc đẩy sự mong muốn của cộng đồng thế giới trước sự "trỗi dậy” đầy đe dọa của Trung Quốc là cần thiết xuất hiện một Việt Nam mạnh mẽ, trở thành một quốc gia cầu nối có lợi cho hòa bình, hợp tác và phát triển. Đồng thời, khi trở thành đối tác đáng tin cậy của cộng đồng thế giới, Việt Nam mới có thể trở thành đối tác được tôn trọng và bình đẳng của Trung Quốc.

Tuyên bố "chủ quyền không thể tranh cãi” bằng yêu sách "đường lưỡi bò” bao chiếm 80% Biển Đông của Trung Quốc trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam cùng với các hành động hung hăng gần đây của nước này trên Biển Đông dù muốn hay không muốn cũng đã đặt dân tộc Việt Nam vào một tình thế buộc phải đối phó. Các chuyên gia lịch sử nhận định, kể từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, có lẽ đây là lần thứ tư nước ta phải đối mặt với sự thách thức lớn như vậy. Riêng trên phương diện quân sự, qua 3 cuộc chiến tranh chống xâm lược ở thế kỷ trước, Việt Nam đã trải nghiệm thực tế là vấn đề tổng số lực lượng quân sự của đối phương và vấn đề lực lượng tại chỗ của ta là hai vấn đề khác nhau, không thể đơn thuần dùng số lượng đo đếm mạnh - yếu của nhau để luận thế thắng bại. Trong thời kỳ đối đầu, sức mạnh của các quốc gia thường được cân đong đo đếm bởi sức mạnh quân sự và kinh tế, tức là "sức mạnh cứng”. Dù vậy, "sức mạnh mềm” quốc gia vẫn không thể xem nhẹ, mà những "câu chuyện kể” về chính nghĩa của nhân dân Việt Nam trong giai đoạn đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước là một minh chứng. Đó là một trong những câu chuyện hấp dẫn và sống động nhất, thu hút được những tình cảm và sự ủng hộ to lớn của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới dành cho Việt Nam. Sức mạnh ấy góp phần không nhỏ vào thắng lợi của Việt Nam trên mặt trận ngoại giao, làm tiền đề cho những chiến thắng quân sự, giúp non sông Việt Nam quy về một mối.

Đường lối đối ngoại của Việt Nam mong muốn làm bạn với tất cả các quốc gia, trở thành một thành viên có trách nhiệm và đáng tin cậy trong cộng đồng thế giới như đã được đề ra lâu nay chỉ có thể trở thành hiện thực trên cơ sở Việt Nam phải có khả năng đi cùng với xu thế phát triển của cả thế giới, cùng với cả thế giới phấn đấu cho trào lưu của hòa bình, tiến bộ, dân chủ, văn minh; cùng phấn đấu như thế để tự phát triển và để có khả năng hợp tác được, hợp tác có thực chất với mọi đối tác. Cần nhấn mạnh, đấy chính là đường lối đối ngoại dấn thân, dựa trên cơ sở tạo ra cho mình khả năng dấn thân – phấn đấu vì lợi ích chính đáng của chính mình, và đồng thời phấn đấu vì các lợi ích của cộng đồng thế giới. Về lâu dài, dân tộc ta ngày nay vẫn phải noi gương cha ông mình "đem đại nghĩa thắng hung tàn”, phải có bản lĩnh và thực lực để thực hiện được bài học này, phải thúc giục nhau làm cho đất nước sớm giầu mạnh lên để mau chóng trở thành một quốc gia mẫu mực trong việc "lấy chí nhân thay cường bạo”.

Chiến lược hòa bình của Việt Nam luôn là thành tố quan trọng trong tư tưởng "dĩ bất biến ứng vạn biến”. Ngày nay, trước sự đe dọa, hung hăng của việc áp đặt yêu sách "đường lưỡi bò” của Trung Quốc trên Biển Đông, Việt Nam vẫn luôn giữ vững tinh thần "dĩ bất biến” kiên trì tìm cách giải quyết các tranh chấp bằng thương lượng hòa bình, tôn trọng lợi ích chính đáng của các quốc gia liên quan và tôn trọng các giá trị văn minh của nhân loại, tức là luôn luôn coi trọng đàm phán và giải quyết vấn đề trên nền tảng công pháp quốc tế. Từ "muốn là bạn” (Đại hội VII, VIII), "sẵn sàng là bạn” (Đại hội IX), "là bạn và đối tác tin cậy” (Đại hội X), Đại hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam đã bổ sung thêm là "thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”, thể hiện quá trình trưởng thành của ngoại giao Việt Nam với sự tham gia ngày càng tích cực, chủ động và có trách nhiệm của nước ta tại các cơ chế, tổ chức, diễn đàn khu vực, đa phương và toàn cầu. Điều đó thực tế đã góp phần làm gia tăng "sức mạnh mềm” của Việt Nam trong quan hệ quốc tế, tạo ra thế và lực cân bằng trong việc xử lý các vấn đề quốc tế và khu vực cho Việt Nam trong những năm gần đây. Trong mối quan hệ với người láng giềng khổng lồ, cần lưu ý rằng chủ nghĩa dân tộc cực đoan, hay bất kỳ phản ứng cảm tính nào khác đều là sai lầm, chẳng hạn như tâm lý "bài Hoa”, chỉ làm mất đi sự tỉnh táo cần thiết và chỉ có thể gây thêm nguy hại mới cho đất nước. Mặt khác, nuôi dưỡng tinh thần hữu nghị và hợp tác láng giềng tốt với Trung Quốc đòi hỏi rất nhiều nỗ lực lớn, trong đó cần thiết phải hết sức tỉnh táo, kiên trì và dũng cảm. Lịch sử quan hệ hai nước Việt-Trung ghi lại nhiều trang lẫm liệt, ngay sau khi đưa được "khách không mời mà đến” ra khỏi nhà mình, Việt Nam đã phải nghĩ đến cầu hòa. Không ai có thể phủ nhận nhân dân ta có nguyện vọng sâu xa và truyền thống quý báu trong xây dựng mối quan hệ đời đời này với Trung Quốc. Bản lĩnh ấy ngày nay càng quan trọng hơn bất cứ giai đoạn nào khác. Ngoại giao dấn thân vì lợi ích quốc gia, dân tộc và có trách nhiệm với thế giới chính là một nền ngoại giao mạnh của một quốc gia có nền nội trị lành mạnh và đầy sức sống. Và cũng chỉ một nền ngoại giao dấn thân như thế mới bảo vệ được đất nước ta và luôn luôn tạo ra cho nước ta sức phát triển mới.

Có thể thấy Biển Đông là một mặt trận nóng, thậm chí có lúc có thể rất nóng, nhưng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mặt trận chính quyết định giành thắng lợi ở mọi mặt trận khác, là nhân dân ta phải xây dựng bằng được nền nội trị lành mạnh làm nền tảng cho mọi quốc sách phát triển kinh tế, xã hội, ngoại giao và quốc phòng. Đây mới là vấn đề, là mặt trận quyết định vận mệnh của Tổ quốc. Thực tế ngày càng làm rõ, "dĩ bất biến ứng vạn biến” cho mọi tình huống là quan trọng hơn bao giờ hết - xây dựng nội trị lành mạnh là mặt trận chính yếu hàng đầu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Đấy sẽ là bức trường thành bất khả xâm phạm bảo vệ Tổ quốc và là nền tảng xây dựng đất nước phồn vinh. Không thể ngồi chờ đợi và cũng sẽ không có chuyện một ngày đẹp trời Trung Quốc bỗng nhiên rút yêu sách "đường lưỡi bò”. Nhưng ngoại giao dấn thân và thái độ công khai minh bạch có thể huy động được dư luận trong nước và thế giới ngăn cản sự lấn tới của Trung Quốc, và trên cơ sở đó tiếp tục giữ được hòa bình trên Biển Đông, mở đường cho những triển vọng mới sau này. Đây còn là hướng đi cụ thể thúc đẩy quá trình hoàn thành Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC), cũng như tiến tới các hiệp định về hòa bình và an ninh khu vực có tính ràng buộc pháp lý cụ thể và chặt chẽ hơn.

Các chuyên gia đều cho rằng, cái gốc của "sức mạnh mềm” suy cho cùng là sự đồng lòng, là kết tinh của sự đoàn kết thống nhất toàn dân tộc. Nhưng muốn có sự đồng lòng, phải biết bao dung, biết dung hòa những khác biệt để hợp sức cho mục tiêu chung là sự giàu mạnh, phát triển bền vững cho muôn đời con cháu mai sau của cộng đồng dân tộc. Một trong những thành tố của sức mạnh tổng hợp tạo nên "sức mạnh mềm” của quốc gia trong lĩnh vực nội trị được cha ông chúng ta sử dụng trong suốt chiều dài lịch sử là sự khoan thư sức dân, lấy dân làm trọng, ý niệm mạnh mẽ về chính nghĩa của dân tộc. Với những điều đó, cha ông chúng ta đã phát huy và động viên được tất cả những tiềm năng, sự sáng tạo của mỗi thành viên trong cộng đồng trên mọi lĩnh vực từ kinh tế - xã hội đến quân sự - quốc phòng và văn hóa – nghệ thuật. Lịch sử cho thấy, thời đại nào nắm vững và thực hành nghiêm túc bài học nội trị như trên luôn là thời thịnh trị với minh quân, thế nước vững chắc cùng sự no ấm của muôn dân khiến cho bao nhiêu mưu toan xâm lược đều phải tiêu vong.

Trước những hành xử hung hăng của Trung Quốc trong âm mưu bá chiếm Biển Đông, áp đặt yêu sách "đường lưỡi bò” phi pháp và phi khoa học, trong tư thế tự vệ chính nghĩa, chủ trương giải quyết tranh chấp bằng thương lượng hòa bình, tôn trọng luật pháp quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc, chủ trương cùng hợp tác, ổn định và phát triển với các nước liên quan của Việt Nam đang thực sự chuyển hóa thành "sức mạnh mềm”. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đang sở hữu một "sức mạnh mềm” từ lịch sử oai hùng, bất khuất được khắc ghi bởi những người con anh hùng của dân tộc, anh dũng hy sinh trong suốt chiều dài hàng mấy thế kỷ qua để thực thi chủ quyền thiêng liêng của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong đó mãi mãi khắc ghi hình ảnh những dân binh của các hải đội Hoàng Sa, Bắc Hải từ thời các vua chúa nhà Nguyễn đến các binh sĩ Việt Nam Cộng hòa tử trận năm 1974 trong cuộc hải chiến Hoàng Sa, các chiến sỹ Hải quân Quân đội Nhân dân Việt Nam kiên cường, bất khuất cùng nắm tay nhau thành "vòng tròn bất tử” coi nhẹ cái chết trong cuộc chiến bảo vệ Trường Sa năm 1988...

"Sức mạnh mềm” của Việt Nam cũng cần được hỗ trợ bởi truyền thông tích cực và kiên trì. Cần phải làm cho mỗi người Việt Nam trong và ngoài nước, cộng đồng thế giới, kể cả nhân dân Trung Quốc hiểu rõ sự thật lịch sử và cơ sở pháp lý quốc tế về chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; hiểu rõ về chủ trương "dĩ bất biến ứng vạn biến” kiên trì với chiến lược hòa bình của người Việt Nam trong việc giải quyết mọi tranh chấp quốc tế; kế thừa và thực hiện sáng tạo tư tưởng của cha ông "Đem đại nghĩa thắng hung tàn; Lấy chí nhân thay cường bạo” để "mở nền thái bình muôn thuở” không chỉ cho dân tộc Việt Nam mà còn vì hòa bình, ổn định, hợp tác và cùng phát triển trong khu vực cũng như trên toàn thế giới.

Nhóm PV Biển Đông

DƯƠNG DANH DY: BỘ MẶT THẬT CỦA NHỮNG NHÀ LÃNH ĐẠO TRUNG QUỐC


DƯƠNG DANH DY: BỘ MẶT THẬT CỦA NHỮNG NHÀ LÃNH ĐẠO TRUNG QUỐC


Không thể thấy rõ, thấy hết… Trung Quốc ngay từ đầu
Dương Danh Dy
- gửi riêng NXD-Blog

Lời dẫn của Dương Danh Dy: Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 15 năm bình thường quan hệ Việt - Mỹ, đầu tháng 7 năm 2010 vừa qua, nhiều cuộc hội thảo khoa học, trao đổi ý kiến… giữa một số chính khách, cựu chính khách, học giả, sinh viên… hai nước Việt, Mỹ đã được tiến hành tại Hà Nội (có cuộc đông tới hơn 150 người). Tôi là người may mắn được tham dự 3 cuộc và đây là lần đầu tiên tôi được tiếp xúc trực tiếp với năm ba, học giả, người phụ trách một lĩnh vực nào đó của phía Mỹ nhưng là người Mỹ gốc Việt liên tiếp trong một số ngày. Các anh, các cháu ấy đều nói thành thạo tiếng Việt, với tôi điều này quả thật là một hạnh phúc. 

Trong câu chuyện riêng tư, một anh (tôi xin phép không nêu tên) đã hỏi tôi: Bác nhận ra bộ mặt thật của những nhà lãnh đạo Trung Quốc từ lúc nào? Tôi đã không ngần ngại nói với anh mấy điều dưới đây:

Nhận thức rõ một vấn đề, một đất nước… là một quá trình, nhưng đối với mỗi người tùy theo trình độ, hoàn cảnh .. mà có thể dài ngắn khác nhau. Đối với tôi, nhận thức Trung Quốc là một quá trình khá dài, từ tin tưởng đến chỗ từng bước từng bước thấy được một phần rồi phần lớn sự thực, và đến bây giờ vẫn chưa chưa dám nói là đã hiểu hết.

Đầu năm năm 1954 sau thắng lợi vĩ đại của chiến dịch Điện Biên Phủ, chúng tôi được trang bị quân phục mới do nước bạn Trung Quốc cung cấp. Chúng tôi đều thích những chiếc ba lô gọn nhẹ, những đôi giày vải còn thơm mùi cao xu, nhưng gây ấn tượng với tôi là chiếc bi đông nhôm đựng nước. Trên đường hành quân trước đây, ngoài vũ khí balô quần áo và chiếc ruột tượng đựng gạo ra, hai vật bất ly thân thời đó của chúng tôi là chiếc xẻng(để đào công sự bảo vệ mình và vũ khí) và một đoạn ống vầu vừa cồng kềnh vừa nặng dùng để đựng nước uống khi hành quân và chiến đấu (khi nào hỏng thì tạt vào rừng chặt một ống mới thay thế), nên khi nhận chiếc bi đông mới, việc đầu tiên của tôi là cắt chiếc áo len dệt mà mẹ đã gửi từ vùng địch hậu ra cho, chia làm mấy phần cho mấy anh em cùng tiểu đội để bọc chiếc bi đông đó.(một sự lãng phí ghê gớm và đánh mất một kỷ niệm quí báu của người thân, nhưng tuổi trẻ là thế đó). Sau khi có trang bị mới, chúng tôi được Bác Hồ và Bác Mao (lúc đó hầu như mọi người ở vùng giải phóng đều gọi  như vậy) khao quân. Bữa tiệc khao quân, ngoài các món ăn Việt Nam có thêm món thịt lợn hộp Trung Quốc và thuốc lá Trung Quốc là quà của Bác Mao. Sau những ngày rít thuốc lào, ấn tượng về hai điếu thuốc lá thơm này mạnh đến mức tôi đã nhớ nhãn hiệu của nó(dù lúc đó chưa biết chữ Hán) để sau này khi sang  Trung Quốc mới biết đó là thuốc lá Hằng Đại do Thượng Hải sản xuất.

Cảm giác thân thiện với nước Trung Hoa mới đến với tôi như vậy đấy. Rồi thắng lợi tại hội nghị Geneve, ta có một nửa nước. Tôi theo sư đoàn về tiếp quản thị xã Bắc Ninh. Câu thơ “Xưa là rừng núi là đêm, Giờ thêm sông biển lại thêm ban ngày” của Tố Hữu đã nói đúng tâm trạng, ít nhất là của những người lính chúng tôi trên đường ra trận chỉ đánh bạn với đêm đen, nay thoải mái, đàng hoàng đi giữa ban ngày mà không sợ máy bay địch oanh tạc. “Nước bạn Trung Quốc đã giúp ta rất lớn trong thắng lợi này …”, cấp trên phổ biến cho chúng tôi. Sao lại không tin chứ? Thế nhưng nếu lúc đó biết được rằng, như sau này tôi ngộ ra: bắt đầu tại hội nghị ấy, ban lãnh đạo Trung Quốc đã thấy Việt Nam là một “món hàng có giá” có thể dùng để trao đổi, mua bán với mấy nước lớn khác nhằm phục vụ lợi ích chủ yếu của họ thì sự thể sau này sẽ khác đi rất nhiểu. Nhưng tiếc rằng ngoài Hồ Chí Minh ra, hình như ít người thấy được sự lợi dụng tinh tế đó.

Năm 1957, thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai lần đầu tiên sang thăm Việt Nam. Có một hành động - không biết là thực lòng hay thủ đoạn tinh vi, vị thủ tướng nổi tiếng khôn ngoan mềm mỏng này đã tới dâng hương tại đền thờ Hai Bà Trưng. Hành động này được đông đảo dân miền Bắc Việt Nam, kế cả người ở vùng giải phóng cũ và vùng ta mới tiếp quản như các thành phố Hà Nội, Hải Phòng và vùng đồng bằng Bắc Bộ cho là Trung Hoa cộng sản đối với ta có khác Tầu Tưởng và phong kiến Trung Quốc!

Năm 1958, tôi chuyển ngành sau khi thi đỗ vào Khoa Hóa khóa 3 Đại Học Bách Khoa Hà Nội. Trung Quốc đang thực hiện phong trào “Nhảy vọt lớn”, chúng tôi háo hức theo rõi tình hình, rục rịch làm theo. May mắn là dưới sự lãnh đạo của thầy Tạ Quang Bửu và sau đó là thày Hoàng Xuân Tùy, ĐH BK Hà Nội không luyện thép bằng lò cao thủ công v.v. nhưng tôi còn nhớ, Đại học Nông Nghiệp ở mạn Văn Điển lúc đó mấy đêm liền đèn điện sáng một góc trời để đón khách tham quan xem thành quả cấy dầy “em bé có thể đứng trên ngọn lúa’ mà không tụt ngã. Ôi cái thời ấu trĩ!

Sau khi tốt nghiệp Kỹ sư máy móc Hóa Chất khóa đầu tiên của ĐHBK Hà Nội năm 1962, tôi được phân công về làm việc tại một đơn vị thuộc Bộ Ngoại thương và tháng 8 năm 1966 được cử sang công tác tại Đại Sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh. Không biết có phải là cái duyên, cái nghiệp  hay không mà ngày tôi tới Bắc Kinh cũng là ngày các tiểu tướng Hồng Vệ Binh công khai xuất hiện trên đường phố, dùng dao rạch quần ống loe, chặt nát giầy mõm nhái, bắt thay đèn đỏ, tín hiệu dừng xe vì cho rằng màu đỏ là màu cách mạng chỉ tiến không dừng v.v. Tôi gắng sức tự học để nâng nhanh trình độ Trung Văn, bắt đầu đọc được báo chữ lớn và nghe hiểu tin trên vô tuyến truyền hình. Tôi lần lượt được thấy cảnh ông Bành Chân bị các “tiểu tướng” bóp lè lưỡi, cảnh tướng Lã Chính Thao, Bộ trưởng Bộ Đường sắt, đầu đội mũ bằng giấy cao hơn 1m, không khăn quàng cổ bị “võ đấu” trong một tối mùa đông giá lạnh…, rồi các bài báo chính thống phê phán nặng nề Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình, Đào Trú, Hạ Long, Bành Đức Hoài.. và một số văn nghệ sĩ, trí thức… nổi tiếng là những “tên phản bội , đầu hàng, quân phiệt, công đoàn vàng, cơ hội hữu khuynh, chống phá tư tưởng Mao Trạch Đông…”  những người trong một thời gian dài đã là“bạn chiến đấu thân cận” của “người cấm lái, người thày… vĩ đại”.

Một câu hỏi không thể không đặt ra: đồng chí ra sống vào chết với nhau mà họ còn đối xử tàn tệ như vậy, thì ta là cái thá gì? Lần đầu tiên tôi ngầm tự đặt cho mình câu hỏi đó và bước đầu tìm được câu trả lời.

Song song với những sự việc trên là một số thái độ “nước lớn. trịch thượng”, với đủ thủ đoạn mánh khóe lúc trắng trợn lúc xảo quyệt đã được tung ra khi chúng ta làm khác họ, không theo họ.


Không kể những bất đồng xảy ra giữa hai bên trước đó mà tôi được các bậc cha chú tin cậy nói cho biết, nhưng vì chưa thấy tận mắt nên chưa ăn sâu vào dạ. Phải đến năm 1967 khi chúng ta chuẩn bị tiến hành đàm phán với Mỹ tại Paris về vấn đề Việt Nam tôi mới có dịp trông thấy nhãn tiền. Lúc này đàm phán cấp đại sứ Trung Mỹ đang bị gián đoạn. Lo ngại Việt Nam trực tiếp tiếp xúc với Mỹ sẽ khiến giá trị của Trung Quốc đối với Mỹ kém đi, trong nội bộ họ vừa phê phán chúng ta là không dám kiên trì chiến đấu, vừa tìm cách trì hoãn đón đoàn cấp cao của ta sang xin viện trợ. Khi đoàn chuyên viên của ta trình bầy khó khăn và đề xuất con số cụ thể về viện trợ lương thực, một Vụ phó Trung Quốc đã nói: thời kỳ Trường chinh, Hồng quân của chúng tôi phải ăn cả cỏ để chống đói và luộc thắt lưng da để ăn cho có chất béo! Những người Việt Nam có mặt hôm đó không thể nào quên câu nói “đắng họng” này. (Với kỷ luật rất nghiêm của chúng tôi thời đó, câu chuyện này rất ít người biết). Ấy thế mà sau khi chắp nối được với Mỹ họ lại “khảng khái, vô tư” viện trợ cho Việt Nam và còn bảo: nên lấy một ít miến, táo, mì chính… về cho đồng bào thủ đô Hà Nội ăn tết! Rồi còn nhiều cái hớ (hớ chứ không phải là hứa như phóng viên Mạc Lâm đài RFA đã ghi nhầm khi phỏng vấn tôi) mà chỉ sau một thời gian mới thấy.

Ôi, trong cái cảnh còn phải nhờ vả người ta, cứ ấm ức rồi lại cám ơn, cảnh giác rồi lại tin cậy…như một mớ bùng nhùng, gỡ mãi mới tìm ra đầu mối. Chỉ nhờ vào thực tiến, và những bài học cay đắng, cộng với nỗ lực tìm hiểu phân tích…, chúng tôi mới dần dần hiểu ra. Sự tỉnh ngộ dù chỉ là ban đầu đã mất nhiều thời gian công sức và trả giá  như vậy đó, bạn ơi! (Tôi không muốn nói đến bao nhiêu cuộc họp hành nội bộ, đấu tranh gay gắt với nhau nhằm tìm ra chân lý).

Còn ai bảo tôi ngu, tôi xin nhận và cám ơn. Xin nói không phải là để bào chữa cho sự kém cỏi của mình, ngay đến Khorutsov, nhân vật nổi tiếng một thời của Liên Xô cũ đã phải cay đắng thốt lên: “Chỉ có những thằng ngu mới tin được Trung Quốc” sau khi bị họ lừa một cách vô cùng khôn khéo! (Và không ít người Mỹ cũng đã ăn phải quả đắng của Trung Quốc đấy!).

Cho nên nói rằng, ngay từ đầu đã hiểu ngay, hiểu sâu, hiểu hết ..Trung Quốc không bị hớ với họ chỉ là thể hiện sự không hiểu gì về Trung Quốc thôi.

Thế nhưng, đến bây giờ (tức thập kỷ thứ hai của thế kỷ 21) sau bao nhiêu hành động gian manh, xảo quyệt, trắng trợn.. của ban lãnh đạo bành trưóng, bá quyền Bắc Kinh đối với các nước và nhất là đối với chúng ta thì chỉ có “những thằng ngu” như Khơrutxop đã gọi, mới còn có ảo tưỏng về “người láng giềng bốn tốt”, về “tình hữu nghị, đồng chí” … với chúng.

Anh bạn mới quen, nhưng có lẽ vì cũng là dân cùng nghiệp nên đã lặng lẽ tỏ vẻ tán đồng.

Tháng tám năm 2010

Chủ Nhật, 25 tháng 3, 2012

Tiếng chuông chùa nơi Trường Sa giá trị gấp nhiều lần


Tiếng chuông chùa nơi Trường Sa giá trị gấp nhiều lần

(VOV) - Theo Đại đức Thích Giác Nghĩa: Tiếng chuông chùa nơi đất liền rất giá trị, tiếng chuông chùa nơi đầu sóng ngọn gió Trường Sa giá trị gấp nhiều lần
Tại huyện đảo Trường Sa, tỉnh Khánh Hòa có rất nhiều ngôi chùa đã được người Việt xây dựng và gìn giữ từ lâu. Được sự quan tâm tạo điều kiện của chính quyền huyện đảo, hoạt động của các nhà chùa ngày càng phát huy hiệu quả, đáp ứng đời sống tôn giáo của nhân dân trên đảo.
Được sự chấp thuận của Giáo Hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Khánh Hòa, sắp tới 6 vị chư tăng sẽ ra huyện đảo Trường Sa để hành đạo. Phóng viên VOV phỏng vấn Đại đức Thích Giác Nghĩa, hiện đang trụ trì chùa Vạn An và chùa Phước Trí, thành phố Nha Trang, người sẽ ra trụ trì chùa Trường Sa Lớn.
Đại đức Thích Giác Nghĩa
PV: Thưa Đại đức, Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Khánh Hòa vừa chấp thuận để Đại đức và các chư tăng ra tu hành tại các chùa ở quần đảo Trường Sa, vậy thầy trò đón nhận thông tin này như thế nào?
Đại đức Thích Giác Nghĩa: Từ tâm nguyện chúng tôi 3 lần ra đó để làm đại lễ cầu siêu những người hy sinh cho dân tộc, bằng sự tri ân, sự thương tưởng đó, cá nhân tôi và các thầy ra đó để tu hành, để hướng tâm lên tam bảo để cầu nguyện những anh em của chúng ta đã bỏ mình trên biển Đông. Đó là những tiếng nói tri ân, hành động tri ân đối với những người hy sinh cho dân tộc.
PV: Vâng, đã 3 lần đến Trường Sa, nghe được tiếng chùa nơi đầu sóng ngọn gió, điều đó gợi lên cho đại đức điều gì?
Đại đức Thích Giác Nghĩa: Tiếng chuông chùa nơi đất liền rất giá trị, tiếng chuông chùa nơi đầu sóng ngọn gió Trường Sa giá trị gấp nhiều lần. Vì nơi đó, Phật pháp đã có từ lâu, qua thời gian gián đoạn, vì điều kiện khó khăn cho nên người sống ở nó rất cần tiếng chuông chùa, tiếng kinh, tiếng kệ, tiếng mõ, gửi gắm tình cảm thân thương, quý trọng, tri ân.
Đại đức Thích Giác Nghĩa trả lời PV phóng viên VOV
PV: Đang trụ trì 2 ngôi chùa tại thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, vậy Đại đức đã sắp xếp Phật sự trong đất liền như thế nào?
Đại đức Thích Giác Nghĩa: Sau 3 lần ra làm lễ cầu siêu và thấy được trách nhiệm và bổn phận mình phải làm gì. Vì vậy, tôi nghĩ rằng trong đất liền còn nhiều chư tăng hướng dẫn đồng bào tu học nhưng ở ngoài đó, hoạt động Phật pháp khan hiếm chư tăng. Nên chúng tôi, sắp xếp công việc của 2 ngôi chùa trong này giao lại cho các đệ tử để ra thời gian dài hướng dẫn và sống với quân và dân ngoài biển đảo.
PV: Lần này ra Trường Sa hành đạo, hành trang của đại đức và các vị chư tăng đến có nhiều khác biệt so với những lần trước chứ ạ?
Đại đức Thích Giác Nghĩa: Chuyến đi này chúng tôi đã chuẩn bị hành trang đầy đủ. Trước khi ra Trường Sa chúng tôi chuẩn bị trống lớn, trống nhỏ... Trước khi ra Trường Sa chuyến này, chúng tôi chuẩn bị chuông đại, trống lớn, trống nhỏ, mõ, kinh kệ…Tất cả những pháp khí để thờ trong ngôi chùa và những cái để hành trì trong đời sống tu hành chúng tôi đã chuẩn bị và chờ ngày ra Trường Sa.
PV: Vâng xin cảm ơn Đại đức!
Hải Sơn/VOV-Miền Trung

6 vị thượng tọa, đại đức sẽ hành đạo tại các chùa ở Trường Sa


6 vị thượng tọa, đại đức sẽ hành đạo tại các chùa ở Trường Sa

(VOV) - Tại quần đảo Trường Sa, những ngôi chùa trên các đảo là một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của quân và dân nơi đây.Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Khánh Hòa vừa tiến cử 6 vị chư tăng tình nguyện làm Phật sự tại các chùa trên đảo thuộc huyện đảo Trường Sa với mong muốn đem hơi ấm nghĩa tình đến với quân và dân trên đảo. Đại đức Thích Giác Nghĩa hiện đang trụ trì tại chùa Vạn Đức và chùa Phước Trí (TP Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa) đã có 3 chuyến ra đảo Trường Sa để cầu siêu cho các Anh hùng Liệt sỹ.
Trường Sa đã để lại cho đại đức nhiều ấn tượng và tình cảm đặc biệt. Đại đức Thích Giác Nghĩa bộc bạch: “Chúng tôi có 3 tâm nguyện. Thứ nhất là tu luyện, tu dưỡng đạo tâm để đời sống tinh thần, tâm linh của mình lớn mạnh. Thứ hai là hướng dẫn người dân trên quần đảo sống thân thiện, thương yêu đùm bọc. Thứ 3, chúng tôi luôn hướng về những anh em ruột thịt của mình đã hy sinh”.
Chùa ở đảo Song Tử Tây (Ảnh: VNE)
Đại đức cũng cho rằng, mảnh đất thiêng liêng chủ quyền của mình, đó là hồn thiêng của tổ tiên thì chúng ta có trách nhiệm bảo vệ. “Con cháu chúng ta hôm nay phải tiếp tục sự nghiệp của cha ông để duy trì mảng mạch của hồn thiêng sông núi dân tộc”, Đại đức nhấn mạnh.
Trong đợt này, 6 vị thượng tọa, đại đức sẽ ra các đảo ở quần đảo Trường Sa để hành đạo tại các ngôi chùa trên đảo.
Trong 6 vị chư tăng ra đảo lần này có vị chư tăng đã từng ra đảo nhiều lần, cũng có vị chưa một lần đến Trường Sa, nhưng tình yêu của các nhà tu hành đối với mảnh đất của Tổ quốc luôn thiêng liêng trong tâm thức mỗi người.
Tình yêu ấy đã thôi thúc họ tình nguyện tham gia Phật sự tại huyện đảo Trường Sa lâu dài đáp ứng đời sống tâm linh của quân và dân trên đảo.
Đại đức Thích Thánh Thành- chùa Vạn Đức (TP Nha Trang) tâm sự: “Tâm nguyện lớn nhất của tôi là có thể sống trên đảo một thời gian thật dài để có thể đóng góp một phần nhỏ đối với sự an lạc hạnh phúc về mặt tinh thần của quân dân trên đảo, cũng như đóng góp đối với sự hòa bình cho toàn thể nhân loại”.
Từ xã đảo Sinh Tồn, Song Tử Tây đến thị trấn Trường Sa Lớn, những ngôi chùa hiện hữu không chỉ đáp ứng đời sống tâm linh của người dân nơi biển đảo mà còn thể hiện khát vọng về cuộc sống yên lành, hòa bình, hữu nghị.
Đến với Trường Sa các vị chư tăng mong muốn trên những hòn đảo thanh bình luôn ngân vang tiếng chuông chùa và để cho khoảng cách giữa Trường Sa với đất liền như gần lại hơn./.
Thu Hương/VOV – Miền Trung