Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp
(Hồi ký của những người trong cuộc)
Nhà xuất bản Lịch sử Đảng Cộng sản Trung Quốc, Bắc Kinh, 2002
Người dịch: Dương Danh Dy
Đăng tại: Diễn Đàn
PHẦN 1
HỒI KÍ LA QUÝ BA
Tháng thứ tư sau khi thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, đã lặng lẽ mở ra một trang ít người biết đến trong lịch sử ngoại giao nước ta, trong lịch sử phong trào cộng sản quốc tế. Đối với cá nhân tôi mà nói, cũng đã mở một trang bước ngoặt trên đường trường chinh mới.
La Quý Ba
nguồn : Tân Hoa Xã
I
Trung Quốc mới ra đời chưa được bao lâu, mùa đông năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương gửi thư cho Mao Chủ tịch, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, yêu cầu Trung Quốc cung cấp viện trợ và cử người sang giúp Việt Nam.
Tháng 1/1950, Hồ Chí Minh đích thân bí mật đến Bắc Kinh, yêu cầu Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp.
Trung ương Đảng ta theo yêu cầu của Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng Đông Dương, đã báo cáo và được Mao chủ tịch đồng ý, quyết định cử tôi bí mật sang Việt Nam, làm đại diện liên lạc giữa Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương. Đồng chí Lưu Thiếu Kỳ còn tự tay viết giấy giới thiệu cho tôi : “Xin giới thiệu đồng chí La Quý Ba, Bí thư tỉnh uỷ và chính uỷ trong quân đội của chúng tôi đến chỗ các đồng chí làm đại diện liên lạc của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, đi theo có 8 trợ lý và tuỳ tùng. Lưu Thế Kỳ, Bí thư trưởng1 Trung ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc, ngày 17/01/1950”.
Lúc này, Chủ tịch Mao Trạch Đông và Thủ tướng Chu Ân Lai đang ở Moskva, hội đàm với Trung ương Đảng Cộng Sản Liên Xô do Stalin đứng đầu, chuẩn bị ký kết “Hiệp ước tương trợ đồng minh hữu nghị Trung – Xô”.
Tháng 1/1950, tôi từ Bắc Kinh lên đường, bí mật xa Tổ quốc. Trước khi lên đường, đồng chí Thiếu Kỳ giao cho ba tháng làm xong nhiệm vụ về nước. Thế nhưng, cùng với việc tình hình thay đổi, đã đi một mạch gần tám năm, tôi lại trải qua một cuộc “kháng chiến tám năm” đối mặt với kẻ thù là quân xâm lược thực dân Pháp.
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chính thức tuyên bố thành lập vào ngày 2/9/1945. Sau đó chẳng bao lâu, quân đội Quốc dân đảng Trung Quốc lập tức tiến vào khu vực phía Bắc vĩ tuyến 16 Việt Nam, chiếm đóng Hà Nội; quân xâm lược thực dân Anh và một phần quân xâm lược thực dân Pháp tiến vào khu vực phía Nam vĩ tuyến 16 Việt Nam chiếm đóng Sài Gòn và lần lượt tiếp nhận quân Nhật đầu hàng. Về sau Quốc dân đảng Trung Quốc thoả hiệp, giao khu vực phía Bắc Việt Nam đã chiếm đóng cho quân Pháp tiếp quản. Quân Pháp không những đổ bộ lên Hải Phòng v.v.., mà còn tiến vào Hà Nội phát động cuộc chiến tranh xâm lược thực dân đối với Việt Nam.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Hồ Chí Minh đứng đầu động viên toàn dân đứng lên chống lại, kiên trì cuộc kháng chiến trường kỳ. Quân xâm lược thực dân Pháp có ưu thế về quân sự đã chiếm đóng mấy thành phố và tuyến đường giao thông quan trọng, buộc cơ quan lãnh đạo Đảng, Chính phủ, quân đội của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ở Hà Nội dời lên Việt Bắc tiến hành cuộc chiến tranh chống Pháp. Quân Pháp tiến hành bao vây, phong toả, chia cắt và không ngừng tiến công quân sự và bắn phá điên cuồng vào căn cứ địa kháng chiến vùng núi Việt Bắc. Lúc này, tình hình chiến trường ở vào giai đoạn cầm cự : Quân Pháp không thể chinh phục quân dân Việt Nam, quân dân Việt Nam nhất thời cũng khó phát động phản công, chỉ có thể phân tán đánh du kích.
Vào thời điểm này, trên quốc tế chưa có một nước nào công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, không có một tổ chức quốc tế nào đặt quan hệ với Việt Nam, Việt Nam chưa giành được vị thế quốc tế, cũng không được viện trợ bên ngoài. Vấn đề viện trợ Việt Nam chống quân xâm lược thực dân Pháp như thế nào là một việc lớn mà lãnh đạo tối cao ba phía Trung Quốc, Việt Nam, Liên Xô trao đổi bàn bạc. Đồng chí Mao Trạch Đông và đồng chí Hồ Chí Minh khi ở Moskva từng hội đàm với Stalin. Khi Hồ Chí Minh nêu ra đề nghị các nước xã hội chủ nghĩa công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Stalin cho rằng làm như thế có thể kích thích các nước đế quốc tăng thêm áp lực đối với Việt Nam. Còn đồng chí Mao Trạch Đông lại cho rằng công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là nâng cao chí khí của mình, đè bẹp uy phong của địch. Tiếp sau đó, nước Cộng Hoà nhân dân Trung Hoa là nước đầu tiên công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và thiết lập quan hệ ngoại giao. Sau đó, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa tiếp tục công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và thiết lập quan hệ ngoại giao.
Hồ Chí Minh từ xa xôi nghìn trùng đến Trung Quốc, đi Liên Xô là để mong được sự viện trợ nhiều mặt, nhất là viện trợ về quân sự và kinh tế tài chính. Stalin cho rằng, Trung Quốc là nước láng giềng của Việt Nam, hiểu rõ tình hình Việt Nam, còn Liên Xô và các nước Đông Âu chịu nhiều vết thương chiến tranh nặng nề trong chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Xô còn phải giúp đỡ các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu khôi phục và xây dựng, trên vai còn rất nặng gánh, mong rằng nhiệm vụ viện trợ Việt Nam, Trung Quốc là chính.
Lúc đó, Trung Quốc mới vừa ra đời chưa được bao lâu, quân giải phóng nhân dân phải truy diệt tàn quân Tưởng Giới Thạch, vây quét bọn đặc vụ thổ phỉ vũ trang, phải tiếp quản thành phố, cả nước đang dốc sức khôi phục kinh tế quốc dân, hàn gắn vết thương chiến tranh và đế quốc Mỹ lại không cam chịu thất bại ở Trung Quốc, tiến hành bao vây, phong toả, cô lập Trung Quốc mới, thậm chí âm mưu can thiệp, lật đổ Trung Quốc mới. Quân xâm lược thực dân Pháp cũng tăng cường bố trí binh lực và cơ sở quân sự ở biên giới Trung-Việt, phong toả biên giới Trung-Việt. Máy bay Pháp thường xuyên bay lượn trên bầu trời biên giới Trung-Việt, bắn phá ném bom, đe doạ an ninh của Trung Quốc. Bọn xâm lược thực dân Pháp còn ủng hộ, che chở tàn quân Tưởng Giới Thạch và đặc vụ thổ phỉ vũ trang, tiến hành quấy rối phá hoại ở biên giới Trung-Việt.
Năm 1950, đế quốc Mỹ tổ chức cái gọi là đội quân Liên Hợp Quốc tiến hành chiến tranh xâm lược Triều Tiên, đánh đến bên bờ sông Áp Lục, đe doạ an ninh Trung Quốc, nước ta quyết định chống Mỹ viện Triều, đưa quân tình nguyện sang tham gia chiến đấu ở Triều Tiên, kề vai sát cánh với quân dân Triều Tiên chống bọn xâm lược Mỹ.
Trong tình hình trong nước, quốc tế lúc bấy giờ rất nghiêm trọng, nhiệm vụ nặng nề, khó khăn rất lớn, Mao Chủ tịch, Trung ương Đảng vẫn không chút do dự quyết định viện trợ cho Việt Nam chống Pháp, ra sức cung cấp viện trợ quân sự, viện trợ tài chính kinh tế vô tư và không hoàn lại cho Việt Nam, cử cố vấn sang giúp Việt Nam tác chiến và công tác. Điều đó chứng tỏ đầy đủ tinh thần quốc tế vô sản vĩ đại của Mao Chủ tịch, Trung ương Đảng.
.
II
Ngày 24/9/1950, cũng tức là sau tám tháng bảy ngày tôi rời Bắc Kinh, lần đầu tiên tôi mới từ vùng núi Bắc Bộ Việt Nam trở về Bắc Kinh báo cáo công tác. Trước tiên theo chỉ thị trực tiếp của đồng chí Thiếu Kỳ và Chu Tổng tư lệnh tôi viết một bản báo cáo về tình hình công tác ở Việt Nam trình các đồng chí lãnh đạo Trung ương. Hai, ba ngày sau, đồng chí Dương Thượng Côn báo cho tôi, đồng chí Thiếu Kỳ muốn tôi đến chỗ đồng chí. Tôi lại đến Trung Nam Hải quen thuộc. Đồng chí Thiếu Kỳ báo cho tôi biết, Mao Chủ tịch muốn đích thân nghe tôi báo cáo. Vì thế tôi và đồng chí Thiếu Kỳ cùng đi xe đến Phong Trạch Viên.
Phong Trạch Viên thời Khang Hy là nơi Hoàng đế nhà Thanh tổ chức nghi lễ biểu diễn trồng trọt mùa xuân. Đây là hai ngôi nhà có sân ở giữa tiêu chuẩn. Hai cây hải đường, hai cây lê tả hữu đối xứng, không có trang hoàng gì, đượm không khí trang nghiêm. Chính giữa nhà trên là “Di niên đường”, hai gian Đông – Tây là “tranh mưa bụi” và “hoạ núi mây”, đây là nơi ở của Mao Chủ tịch rất giản đơn mộc mạc.
Trong “Di Niên đường”, từ trần nhà đến khung cửa, cánh cửa, ô cửa sổ đều là gỗ gụ trạm hoa, trong phòng rất sang trọng nhưng chỉ đặt 10 chiếc xô pha cá nhân, xoay quanh một bàn tròn nhỏ, kê trên một tấm thảm rất cũ, sau ghế xô pha đặt một chiếc bàn dài và hẹp, những thứ đó chiếm một nửa phòng tiếp khách. Nhìn xung quanh cũng không thấy có bày biện gì nữa. Nơi sống và làm việc của Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân của chúng ta giản dị chất phác như thế đó. Lúc đó cũng chưa có quy định tiếp khách chặt chẽ. Nhiều lần tôi đến báo cáo, Mao Chủ tịch đều ngồi trên chiếc xa lông ở phía nam, có lúc tôi ngồi bên cạnh Người, có lúc lại ngồi xa một chút.
Khi đồng chí Thiếu Kỳ dẫn tôi đến gặp Mao Chủ tịch, Chu Tổng tư lệnh, Chu Thủ tướng đã ngồi bên cạnh Chủ tịch. Trước tiên, đồng chí Thiếu Kỳ nói về tình hình tôi đã báo cáo. Sau khi nghe xong Chủ tịch đứng dậy nói với tôi : “ Đồng chí Trường Chinh, Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam gửi điện giục đồng chí nhanh chóng trở lại Việt Nam làm việc, Hồ Chí Minh mong đồng chí làm Tổng cố vấn của đồng chí đó. Đồng chí phải chuẩn bị tư tưởng làm việc lâu dài ở Việt Nam ”. Đồng chí Thiếu Kỳ nói xen vào : “ Trước định đồng chí làm việc ở Việt Nam ba tháng, bây giờ xem ra không được nữa rồi, phải tính chuyện lâu dài ở Việt Nam ”. Chu Thủ tướng nói : “ Trung ương đã quyết định trong nội bộ tương lai đồng chí là Đại sứ đầu tiên của Trung Quốc tại Việt Nam ”. Mao Chủ tịch nói : “ Nhiệm vụ liên hệ giữa hai Đảng Trung-Việt chúng ta do đồng chí tiếp tục hoàn thành. Đồng chí là đại diện liên lạc do Đảng ta cử sang, cũng có thể là đại biểu liên lạc duy nhất ”. Chu Thủ tướng và Chu Tổng tư lệnh giới thiệu tóm tắt tình hình đế quốc Mỹ xâm lược Triều Tiên và tình hình chúng ta đưa quân tình nguyện sang Triều Tiên tham gia chiến đấu và bảo tôi sau khi trở lại Việt Nam, có thể báo cáo tình hình này cho Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương.
Mao Chủ tịch nói thêm : “ Căn cứ vào tình hình của Triều Tiên chúng ta quyết định chống Mỹ viện Triều, công khai đưa quân tình nguyện sang Triều Tiên tham gia chiến đấu, kề vai sát cánh chiến đấu với quân dân Triều Tiên chống bọn xâm lược Mỹ ; chúng ta lại căn cứ vào tình hình của Việt Nam quyết định tiếp tục viện trợ Việt Nam chống Pháp, bí mật cung cấp viện trợ quân sự, viện trợ tài chính kinh tế cho Việt Nam, còn cử cố vấn giúp Việt Nam tác chiến và công tác. Dù là chống Mỹ viện Triều hay là viện Việt chống Pháp đều là chủ nghĩa quốc tế, chủ nghĩa yêu nước, ý nghĩa trọng đại như nhau, vẻ vang như nhau, chỉ có phương thức viện trợ mỗi nơi có khác nhau ”. Tiếp đó, Chủ tịch chuyển sang chuyện khác, tự nhiên hỏi đến tình hình vợ và gia đình tôi. Khi tôi nói đến vợ tôi, đồng chí Lý Hàm Trân là cán bộ tham gia cuộc Trường chinh của Hồng quân năm 1933, Mao Chủ tịch phấn khởi nói : “ À ! Thì ra đồng chí ấy là lão đồng chí đã trải qua thức thách chiến tranh, rất tốt. Đồng chí ấy đã làm công tác gì ? ”. Tôi nói : “ Nhà tôi đã làm công tác cơ yếu, công tác tổ chức, công tác cán bộ ”. Mao Chủ tịch nói ngay : “ Được! Để đồng chí ấy cũng sang Việt Nam công tác làm trợ lý cho đồng chí. Hồ Chí Minh đã đề nghị với tôi để vợ các đồng chí cùng sang Việt Nam, ai thích hợp thì tôi đồng ý cho đi ”. Về sau, các cố vấn chúng ta cử sang Việt Nam, có số ít người mang vợ theo.
Đồng chí Thiếu Kỳ nói : “ Nhu cầu cấp thiết của Việt Nam hiện nay là giải quyết vấn đề tài chính kinh tế, đặc biệt là vấn đề lương thực và vấn đề tiền tệ. Chúng ta đã chọn mấy cán bộ làm công tác tài chính kinh tế, công tác ngân hàng, công tác lương thực sang Việt Nam làm cố vấn. Các đồng chí ấy và đồng chí đi trước, sau này còn phải chọn cố vấn trên các mặt khác thành lập đoàn cố vấn chính trị giúp Việt Nam làm công tác đảng, đồng chí là Tổng cố vấn, lại là đoàn trưởng đoàn cố vấn chính trị ”.
Khi ấy nghe đồng chí Thiếu Kỳ nói đến “ tổng cố vấn ”, Mao Chủ tịch nói : “ Làm Tổng cố vấn không thể rập khuôn theo kiểu của Liên Xô, mà Việt Nam cũng không phải là Trung Quốc, đồng chí không thể rập khuôn theo kiểu Trung Quốc. Mọi việc phải xuất phát từ thực tế Việt Nam, phải thật thà, thành khẩn trước mặt mọi người, giới thiệu kinh nghiệm thành công của cách mạng Trung Quốc, cũng phải nói đến bài học thất bại ”. Lần báo cáo này là lần đầu tiên tôi được trực tiếp nghe lời dạy và chỉ thị của Mao Chủ tịch về vấn đề quốc tế.
III
Bước đầu tiên viện trợ Việt Nam là phải khai thông giao thông biên giới Trung-Việt, vì có thế vật tư viện trợ Việt Nam mới có thể chở sang Việt Nam thuận lợi. Chỉ cần Quân đội Nhân dân Việt Nam chiếm con đường giao thông chủ yếu trên biên giới Trung-Việt thì quân Pháp sẽ mất ưu thế số một. Chỉ có hai sự lựa chọn khai thông con đường giao thông chủ yếu biên giới Trung-Việt : một là đánh Cao Bằng tiếp giáp giữa Việt Nam và Quảng Tây ; một nữa là đánh Lào Cai tiếp giáp giữa Việt Nam và Vân Nam. Đánh Cao Bằng trước hay đánh Lào Cai trước, hay là đánh cả hai cùng một lúc, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương và Trung ương Đảng ta đều đã điều tra nghiên cứu, suy nghĩ trao đổi nhiều lần gần 3 tháng. Ngày 02/7/1950, Mao Chủ tịch gửi điện trả lời Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam : “ Đồng ý ý kiến đánh Cao Bằng trước, phương án tác chiến cụ thể đối với Cao Bằng, chờ sau khi Trần Canh đến, do các đồng chí quyết định cuối cùng. Sau này tác chiến như thế nào do chính các đồng chí căn cứ vào tình hình cụ thể quyết định. Nếu chúng tôi có ý kiến, cũng chỉ để các đồng chí tham khảo. Bởi vì các đồng chí hiểu rõ tình hình hơn chúng tôi ”.
Từ trái sang phải (hàng đầu) : Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, La Quý Ba, Tôn Đức Thắng, Nguyễn Lương Bằng (nguồn : Tân Hoa Xã)
Đồng chí Trần Canh là vị tướng được Hồ Chí Minh điểm danh với Mao Chủ tịch và Trung ương Đảng ta, Mao Chủ tịch, Trung ương đảng ta cử đồng chí Trần Canh làm đại diện của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc sang Việt Nam giúp tổ chức chỉ huy chiến dịch Biên Giới, đoàn cố vấn quân sự đã tham gia chiến dịch biên giới. Đây là một chiến dịch then chốt. Mao Chủ tịch rất coi trọng và quan tâm theo dõi chiến dịch này, rất nhiều bức điện quan trọng đều do Chủ tịch đích thân phê duyệt, thậm chí thân tự khởi thảo. Trong thời gian chuẩn bị chiến dịch Biên Giới, Mao Chủ tịch, Trung ương Đảng đồng ý yêu cầu của Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đưa một bộ phận quân đội nhân dân Việt Nam đến vùng núi Văn Sơn, Vân Nam, chỉnh đốn đội hình, trang bị, huấn luyện, đồng thời giúp bộ phận quân đội này biên chế thành hai đại đoàn, hình thành hai quả đấm, đóng vai trò quan trọng trong chiến dịch biên giới. Trần Canh tuân theo chỉ thị của Mao Chủ tịch, Trung ương Đảng giúp đỡ hết lòng, vô tư. Cuối cùng quân đội nhân dân Việt Nam đã giành thắng lợi to lớn quan trọng trong chiến dịch này, đã xoay chuyển tình thế bị động trên trường Việt Nam, khai thông đường giao thông biên giới Trung-Việt. Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp tỏ ra rất phấn khởi và hài lòng đối với chiến dịch này. Sau khi kết thúc thắng lợi chiến dịch biên giới, ngày 14/10/1950, Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng chí Mao Trạch Đông, Trung ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc : “ Chúng tôi đã thắng lợi hoàn toàn trong chiến dịch Thất Khê – Cao Bằng (chỉ chiến dịch Biên Giới). Nguyên nhân lớn nhất của thắng lợi này là sự viện trợ tận tình của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Cộng sản Liên Xô, sự nhiệt tình cảm động của các đồng chí Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông không nề hà gian khổ chấp hành chỉ thị của các đồng chí trực tiếp để giúp đỡ chúng tôi. Tôi cần nêu lên công lao đặc biệt của Trần Canh, Nhiệm Cùng, Vân Dật, Thiên Hựu, Quý Ba, Kiếm Anh, Phương Phương, Quốc Thanh và các đồng chí cố vấn trong chiến dịch. Tóm lại, tôi cho rằng thắng lợi này là thắng lợi của đường lối Mao Trạch Đông cách mạng, quốc tế chủ nghĩa. Tôi không nói lời khách sáo : “Cảm ơn các đồng chí”, mà nói các đồng chí Việt Nam và nhân dân chúng tôi sẽ nỗ lực hơn nữa giành lấy thắng lợi cuối cùng lớn hơn, lấy thành công để đền đáp sự kỳ vọng tha thiết và giúp đỡ to lớn của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Cộng sản Liên Xô anh em ”.
Từ trái sang phải (hàng đầu) : Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, La Quý Ba, Tôn Đức Thắng, Nguyễn Lương Bằng (nguồn : Tân Hoa Xã)
IV
Tháng 11 năm 1950, tôi lại quay về nước để báo cáo công tác với Trung ương, khi báo cáo việc Việt Nam nêu ra với nước ta kế hoạch mong muốn viện trợ, Mao Chủ tịch nói : “ Nhân dân Trung Quốc đã giành được thắng lợi cách mạng có nghĩa vụ giúp đỡ nhân dân các nước chưa được giải phóng, đó là chủ nghĩa quốc tế. Việt Nam đang tiến hành cuộc chiến tranh chống Pháp, đơn độc không có viện trợ, khó khăn rất lớn, họ yêu cầu chúng ta cung cấp viện trợ và giúp đỡ, chúng ta có nghĩa vụ viện trợ và giúp đỡ họ ; Trung Quốc cung cấp viện trợ cho Việt Nam là vô tư, không hoàn lại, không kèm theo bất cứ điều kiện chính trị nào, hễ Việt Nam kháng chiến quả thực có nhu cầu, mà Trung Quốc lại có điều kiện thì cố hết sức cung cấp ”. Mao Chủ tịch lại nói : “ Bọn xâm lược thực dân Pháp là kẻ thù của nhân dân Việt Nam, cũng là kẻ thù của nhân dân Trung Quốc; Trung Quốc giúp Việt Nam đánh bại quân xâm lược thực dân Pháp, lập lại hoà bình ở Việt Nam, đó là Trung Quốc giúp Việt Nam. Còn Việt Nam đánh bại bọn xâm lược thực dân Pháp, đuổi chúng ra khỏi Việt Nam, biên cương phía Nam của Trung Quốc cũng giải toả khỏi mối đe doạ của bọn xâm lược thực dân Pháp, đó lại là Việt Nam giúp Trung Quốc. Không thể chỉ nói Trung Quốc giúp Việt Nam, phải nói rằng Việt Nam cũng giúp Trung Quốc, là sự giúp đỡ lẫn nhau ”.
Khi tôi báo cáo Việt Nam nêu ra kế hoạch viện trợ quá lớn, yêu cầu quá cao, không sát thực tế lắm, Mao Chủ tịch nói : “ Họ nêu kế hoạch quá lớn, yêu cầu quá cao, không sát thực tế, có thể là thiếu hiểu rõ tình hình của nước ta và tình hình của họ, cũng có thể liên quan đến việc thiếu kinh nghiệm phải kiên nhẫn giúp đỡ họ ”.
Trong mấy năm công tác tại Việt Nam, tiến hành viện trợ và giúp đỡ Việt Nam, bất kể là cung cấp viện trợ cho Việt Nam bao gồm vũ khí đạn dược, trang bị quân sự, lương thực, vải vóc, thuốc men y tế, máy móc thông tin, phương tiện giao thông, các loại thực phẩm v.v... hay bất kể là giới thiệu kinh nghiệm đấu tranh cách mạng của Trung Quốc cho Việt Nam, giúp Việt Nam tác chiến và công tác, chúng tôi đều làm theo chỉ thị và dạy bảo đó của Mao Chủ tịch, Trung ương Đảng.
Cố vấn Trung Quốc làm việc giúp đỡ tại Việt Nam là chân thành, toàn tâm toàn ý, không hề bảo lưu, đã cống hiến vô tư cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam. Tuân theo chỉ thị của Mao Chủ tịch, chúng tôi công tác giúp Việt Nam đồng cam cộng khổ, cùng làm việc, cùng chiến đấu, cùng sinh hoạt với các đồng chí Việt Nam, không đòi hỏi Việt Nam bất cứ một chiếu cố đặc biệt và thù lao đặc cách nào.
Viện trợ và giúp đỡ của Trung Quốc cho Việt Nam, chính phủ Trung Quốc không lấy tiền, đòi nợ Việt Nam, không ký bất cứ thoả thuận hoặc hiệp định bất bình đẳng nào với Việt Nam, không xây dựng bất cứ căn cứ quân sự và đóng một người lính nào ở Việt Nam, hoàn toàn không phải trả giá, vô tư, điều đó nói lên đầy đủ chủ nghĩa quốc tế vĩ đại của Mao Chủ tịch. Chủ nghĩa Quốc tế đó cũng hiếm thấy trên thế giới.
http://www.vnmilitaryhistory.net/Themes/DILBERMC/images/ip.gifLogged
V
Mùa đông năm 1951, Hồ Chí Minh một lần nữa bí mật đến Bắc Kinh thăm Trung Quốc.
Một hôm tôi tháp tùng Người đến Di Niên đường trong Phong Trạch Viên. Khi chúng tôi bước vào, Mao Chủ tịch, đồng chí Thiếu Kỳ, Chu Thủ tướng, Chu Tổng tư lệnh đều ra đón, họ ôm hôn nhau thăm thiết. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lần lượt quen biết Mao Chủ tịch, đồng chí Thiếu Kỳ, Chu Thủ tướng, Chu Tổng tư lệnh ngay từ trong thời kỳ chiến tranh cách mạng trong nước lần thứ nhất và thời ký chiến tranh chống Nhật ở Trung Quốc. Người nói tiếng phổ thông với khẩu âm Quảng Đông rất lưu loát, có thể không cần phiên dịch. Trong trường hợp này không có chút hình thức ngoại giao nào Hồ Chí Minh thân thiết, nhiệt tình như về nhà mình.
Người gặp Mao Chủ tịch như anh em xa cách lâu ngày, thăm hỏi lẫn nhau, nói rất say sưa, rồi chuyển nhanh sang vấn đề chính. Hồ Chí Minh giới thiệu tóm tắt tình hình chiến tranh Việt Nam chống Pháp, tình hình xây dựng căn cứ địa, tình hình cố vấn Trung Quốc làm việc tại Việt Nam. Chu Thủ tướng, Chu Tổng tư lệnh cũng giới thiệu tóm tắt với Hồ Chí Minh tình hình chiến trường Triều Tiên và tình hình liên quan trong nước Trung Quốc.
Trong trao đổi, Hồ Chí Minh hỏi Mao Chủ tịch : “ Bộ Chính trị Trung ương chúng tôi yêu cầu đồng chí La Quý Ba khi tham gia hội nghị Bộ Chính trị Trung ương chúng tôi nêu nhiều ý kiến về các mặt công tác của chúng tôi, giúp đỡ nhiều cho chúng tôi. Nhưng đồng chí quá thận trọng, quá khiêm tốn. Tôi mong các đồng chí giao cho đồng chí ấy nhiệm vụ nêu nhiều ý kiến. Mao Chủ tịch, các đồng chí có đồng ý không ? ” Mao Chủ tịch nói : “ Chúng tôi đồng ý, nhưng ý kiến hoặc kiến nghị của đồng chí ấy nêu ra với các đồng chí chỉ để các đồng chí tham khảo, các đồng chí cho rằng đồng chí ấy nói đúng thì áp dụng, không đúng thì không áp dụng, do các đồng chí tự quyết định ”.
Khi Mao Chủ tịch và Hồ Chí Minh trao đổi với nhau, cách nhìn, quan điểm và ý tưởng đối với một số vấn đề đều hoà hợp như là câu chuyện trong gia đình, xem như tán gẫu, nhưng suy nghĩ kỹ thấy ý nghĩa sâu sắc, đậm đà hương vị. Hồ Chí Minh là người rất giàu tình cảm, nhìn thấy rõ Người bị truyền cảm bởi sự chân thành của Mao Chủ tịch, Người đứng dậy nói : “ Tôi và các đồng chí Việt Nam đều cảm nhận thấy sự chân thành giúp đỡ chúng tôi từ trong hành động của các đồng chí ”.
Đến giờ ăn cơm, Mao Chủ tịch, Hồ Chủ tịch, đồng chí Thiếu Kỳ, Chu Tổng tư lệnh đi vào phòng ăn. Chu Thủ tướng xin về trước vì có hoạt động đối ngoại. Phòng ăn và phòng tiếp khách ngăn cách bằng tấm bình phong, chỉ đi bảy, tám bước là đến. Phòng ăn chỉ đủ kê hai chiếc bàn, lúc này chỉ kê một bàn ăn. Mao Chủ tịch, Hồ Chủ tịch, đồng chí Thiếu Kỳ, Chu Tổng tư lệnh vừa ăn vừa tiếp tục trao đổi. Người này một câu, người kia một câu, nói xen lẫn nhau, bổ sung cho nhau, trò chuyện rất say sưa, sôi nổi.
Giữa bữa ăn, Hồ Chủ Tịch thấy đưa ớt lên, liền nói với Mao Chủ tịch : “ Nghe đồng chí Quý Ba giới thiệu Mao Chủ tịch rất thích ăn ớt, không có ớt thì không thể nuốt nổi cơm phải không ? ”. Mao Chủ tịch cười. Hồ Chí Minh lại nói tiếp : “ Người Việt Nam chúng tôi cũng thích ăn ớt, ớt của chúng tôi không to như ớt Trung Quốc, giống như cây con, cao một hai mét, trái nhỏ chỉ lên trời, ăn vào thật là cay ”. Sau khi mọi người hứng thú nghe Hồ Chủ tịch kể xong ớt chỉ thiên ở núi rừng Việt Bắc, Mao Chủ tịch nói : “ Thích ăn ớt không phải chỉ một mình tôi, đồng chí Thiếu Kỳ và tôi là người Hồ Nam, người Hồ Nam thích ăn ớt ; Chu Tổng tư lệnh là người Tứ Xuyên, người Tứ Xuyên ăn ớt cũng rất dữ ; đồng chí này (chỉ tôi) là người Giang Tây cũng ăn ớt, người Vân Nam gần các đồng chí cũng thích ăn ớt. Nhưng những người ăn ớt như chúng ta, cách ăn mỗi người có một đặc sắc, cách làm cũng có khác nhau.” Chủ đề tiếp theo là mỗi người tự giới thiệu cách pha chế ớt của quê hương mình. Nhưng mọi người thích thú nhất là cách ăn ớt của Việt Nam. Hồ Chí Minh nói : “ Bỏ ớt chỉ thiên vào lọ nước mắm (nước mắm là một loại xì dầu của người Việt Nam chế ra) pha thêm một ít chanh, cùng ăn.” Lúc này Mao Chủ tịch nói : “ Chúng tôi ăn ớt thành thói quen, nhưng không phải thói quen do tập tục quê hương tạo nên, đó là năm 1932 đến 1934, khu Xô Viết Trung ương bị Quốc dân đảng phong toả kinh tế, căn bản không có muối ăn. Để kiếm được một ít muối ăn, không ít đồng chí chúng tôi đã phải trả giá rất đắt ; thậm chí hy sinh tính mạng của mình, lúc đó thật là gian khổ. Không có muối, ăn cơm mới khó làm sao ! Tôi cũng như mọi người lấy ớt thay muối, ăn cơm bằng ớt không có muối có thể coi là rau ngon vậy ”.
Bao nhiêu năm đã trôi qua, tôi không bao giờ quên câu chuyện về ớt lần ấy.
VI
Sau khi tiễn Hồ Chí Minh, Mao Chủ tịch, đồng chí Thiếu Kỳ và Chu Tổng tư lệnh giữ tôi lại, tiếp tục nói chuyện với tôi.
Mao Chủ tịch nói : “ Đồng chí Hồ Chí Minh muốn đồng chí khi tham gia hội nghị Bộ Chính trị của họ, nêu nhiều ý kiến, giúp đỡ nhiều hơn đối với mặt công tác của họ. Đồng chí có thể nêu, nhưng dù nêu ý kiến hay đề nghị đều phải nói rõ chỉ để họ tham khảo. Đồng chí phải chú ý điều tra nghiên cứu, không được chủ quan, phải xuất phát từ thực tế của Việt Nam, kết hợp kinh nghiệm của Trung Quốc, không được cứng nhắc. Nêu ý kiến hoặc kiến nghị đều phải thận trọng, phải suy nghĩ kỹ, phải chuẩn bị tốt, phải nghiêm chỉnh chịu trách nhiệm. Giúp người ta phải giúp cho tốt, không áp đặt người ta. Phải hết sức chú ý tôn trọng đồng chí Hồ Chí Minh và tôn trọng sự lãnh đạo của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Không được làm ra vẻ khâm sai đại thần, nhất là không được có chủ nghĩa nước lớn. Đồng chí giữ thái độ thận trọng là đúng ”.
Đồng chí Thiếu Kỳ, Chu Tổng tư lệnh nói tiếp : “ Đồng chí phải chú ý, không nên vượt quá phạm vi nhiệm vụ công tác của đồng chí, trước hoặc sau những vấn đề quan trọng phải thỉnh thị báo cáo Mao Chủ tịch, Trung ương ”.
Tiếp đó, Mao Chủ tịch nói với thái độ nghiêm túc và hơi xúc động : “ Trước cuộc trường chinh, đồng chí ở khu Xô Viết Trung ương, chắc biết Lý Đức ? ”.
“ Vâng, tôi có biết Lý Đức ”.
Mao Chủ tịch nói : “ Lý Đức (*) là người Đức, ông ta lập chiến công trong Hồng quân Liên Xô thời kỳ cách mạng Tháng Mười Liên Xô, được Stalin khen ngợi, cử ông ta sang thường trú bên cảnh Đảng Cộng sản Trung Quốc, về sau đến khu Xô Viết Trung ương làm cố vấn quân sự. Chẳng bao lâu ông ta nắm quyền chỉ huy Hồng quân công nông Trung Quốc, gây tổn thất to lớn cho sự nghiệp cách mạng Trung Quốc. Lý Đức không hiểu tình hình đất nước Trung Quốc, cũng không hiểu tình hình của Hồng quân công nông Trung Quốc, không điều tra nghiên cứu, không chịu nghe ý kiến bất đồng, rập khuôn máy móc chiến lược, chiến thuật có hiệu quả ở Liên Xô, song không vận dụng được ở Trung Quốc. Đi đến đâu cũng giương lá cờ quốc tế vô sản để doạ nạt người khác. Bao biện làm thay, lên mặt dạy đời, khoa chân múa tay áp đặt người ta, như một khâm sai đại thần, đầy sắc khí ! Những người như Lý Đức, Bác Cổ v.v.. đã thực hành một loạt chiến lược chiến thuật sai lầm về mặt quân sự, làm cho chúng ta khốn khổ đủ điều, đã trả giá bằng máu nặng nề ”.
Mao Chủ tịch lại nói : “ Đồng chí công tác ở Việt Nam, nhất thiết phải tránh bài học của Lý Đức ở Trung Quốc. Phải nói bài học này cho toàn thể các đồng chí cố vấn trong đoàn cố vấn, để mọi người ghi nhớ kỹ bài học sâu sắc này. Nói với các cố vấn, giúp người ta không thể rập khuôn máy móc theo cách làm trước đây của chúng ta. Giúp người ta phải giúp cho tốt, chỉ dựa vào nguyện vọng chủ quan là không được, phải căn cứ tình hình thực tế mới có thể giúp tốt được. Phải có thái độ thật thà, thận trọng, ít nói chúng ta đã “ qua năm cửa ải chém sáu tướng ”2 như thế nào, giới thiệu nhiều chúng ta “ đến Mạch thành ”3 như thế nào, chúng ta cũng có thất bại. Trong quá trình giúp đỡ người ta, phải thường xuyên kiểm điểm lời nói và hành động của mình, mỗi ngày một lần, ba ngày một lần, ít nhất mỗi tuần một lần, kiểm điểm xem cái nào chúng ta làm đúng, cái gì chúng ta làm sai ”.
Đối với đồng chí Hồ Chí Minh, không những nhân dân hai nước Trung-Việt rất tôn trọng đồng chí, trên quốc tế, ngay cả những người phản đối đồng chí cũng rất tôn trọng đồng chí. Mao Chủ tịch đề cao sự tôn trọng đối với Hồ Chí Minh ở mức cao như vậy là có ý nghĩa rất sâu xa. Tôi rất thấm thía lời nói chuyện của Mao Chủ tịch đối với tôi, tôi cảm thụ rất sâu như được một lần giáo dục chủ nghĩa quốc tế vô sản cực kỳ sâu sắc hết sức thực tế.
VII
Mao Chủ tịch bao giờ cũng coi sự nghiệp cách mạng đấu tranh chống Pháp của nhân dân Việt Nam như sự nghiệp cách mạng của nhân dân Trung Quốc, giúp đỡ Việt Nam với tinh thần quốc tế chủ nghĩa hoàn toàn triệt để, cống hiến vô tư. Mao Chủ tịch không chỉ dạy bảo tôi và các cố vấn khác như thế, mà chính người cũng làm như thế. Dù là điện của Trần Canh, Vi Quốc Thanh và tôi xin chỉ thị của Mao Chủ tịch, Trung ương Đảng hay chỉ thị của Mao Chủ tịch, Trung ương Đảng đối với chúng tôi, dù là bức điện về mặt tác chiến (như chiến dịch Biên Giới, chiến dịch Điện Biên Phủ, chiến dịch Tây Bắc v.v..) xây dựng bộ đội và huấn luyện bộ đội, hay là những bức điện vấn đề quan trọng về mặt xây dựng tư tưởng và xây dựng tổ chức của Đảng, công tác tài chính kinh tế, công tác cải cách ruộng đất, viện trợ quân sự, viện trợ tài chính kinh tế và công tác công an, tình báo, dân tộc thiểu số v.v.. Mao Chủ tịch đều đích thân phê duyệt, sửa chữa, ký cho chuyển đi, trong đó có những bức điện đặc biệt quan trọng, Mao Chủ tịch tự khởi thảo, khi trả lời các bức điện của Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam trưng cầu ý kiến Trung ương Đảng hoặc các bức điện quan trọng của Mao Chủ tịch, Trung ương Đảng nêu ý kiến hoặc kiến nghị với Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng Lao Động Việt Nam, đều viết như thế này : “ Ý kiến của chúng tôi chỉ để tham khảo, do các đồng chí quyết định, các đồng chí thông thạo, hiểu rõ tình hình hơn chúng tôi ”.
“ Quy tắc công tác ” của cố vấn Trung Quốc tại Việt Nam do đồng chí Vương Gia Tường chủ trì Ban liên lạc đối ngoại Trung ương khởi thảo, khi Mao Chủ tịch xét duyệt đã có bổ sung quan trọng : “ Yêu mến từng gốc cây ngọn cỏ của nhân dân Việt Nam, tôn trọng độc lập dân tộc Việt Nam và phong tục tập quán của nhân dân Việt Nam, ủng hộ Đảng Lao động Việt Nam và đồng chí Hồ Chí Minh lãnh tụ của nhân dân Việt Nam ”. Mỗi dòng chữ của “ Quy tắc ” đều chứa chan tinh thần quốc tế chủ nghĩa của Mao Chủ tịch, Trung ương Đảng.
Năm 1952, tôi về nước báo cáo tình hình công tác, báo cáo với Mao Chủ tịch, có nói đại đa số cố vấn đều tuân theo chỉ thị và yêu cầu của Mao Chủ tịch, Trung ương Đảng, mang tinh thần quốc tế chủ nghĩa, yên tâm công tác tại Việt Nam, nhưng có số ít cố vấn vì điều kiện khí hậu Việt Nam vừa nóng vừa ẩm, muỗi nhiều, sinh hoạt không quen, thường hay mắc bệnh, lại lên cơn sốt rét, sút cân rõ rệt lại thêm chiến đấu dồn dập, máy bay Pháp luôn luôn bắn phá, ném bom, lo chết bệnh, chết trận tại Việt Nam, mong muốn và yêu cầu về nước công tác trước thời hạn.
Nghe xong, Mao Chủ tịch trầm ngâm một lát, sau đó dõng dạc nói : “ Bethune là người Canada, chẳng nề đường xa vạn dặm đến Trung Quốc, giúp Trung Quốc chống quân xâm lược Nhật, không tơ hào tư lợi, không tiếc hy sinh tất cả, đó chính là tinh thần quốc tế chủ nghĩa. Đồng chí đã hy sinh vẻ vang tại Trung Quốc, an táng trên đất Trung Quốc, đồng chí là một chiến sĩ quốc tế rất tốt, chúng ta mãi mãi tưởng nhớ đồng chí ”. Mao Chủ tịch lại nói : “ Chúng ta có rất nhiều người miền Bắc công tác, chiến đấu và sống ở miền Nam, có người hy sinh ở miền Nam ; cũng có rất nhiều người miền Nam công tác, chiến đấu và sống ở miền Bắc, có người hy sinh ở miền Bắc. Cố vấn của chúng ta đều là đảng viên Đảng Cộng sản, Đảng cử các đồng chí ấy sang viện trợ Việt Nam chống Pháp, giúp Việt Nam công tác, vì sao không thể kiên trì công tác, chiến đấu và sống ở Việt Nam ? Vì sao không thể hy sinh ở Việt Nam ? ” Tiếp đó, Mao Chủ tịch ngâm lại câu thơ : “ Chôn trung liệt khắp nơi non xanh biếc biếc. Cần chi da ngựa bọc thây trở về ”. Chủ tịch đã giải thích hàm nghĩa của hai câu thơ này.
Những lời nói của Mao Chủ tịch lần này tác động rất mạnh đến tư tưởng của tôi và các cố vấn. Mao Chủ tịch đang cổ vũ tôi và các cố vấn phải hoàn toàn triệt để hiến thân cho sự nghiệp giải phóng của nhân dân Việt Nam, làm một chiến sĩ quốc tế đích thực.
VIII
Giải quyết vấn đề lương thực và tiền tệ Việt Nam là một trong những vấn đề cấp bách nhất, khó khăn nhất cần giúp nghiên cứu giải quyết được nêu ra khi Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp v.v... giới thiệu tình hình Việt Nam với tôi.
Tôi báo cáo vấn đề này cho Mao Chủ tịch, Trung ương Đảng. Mao Chủ tịch và đồng chí Thiếu Kỳ chỉ thị cho chúng tôi : Biện pháp căn bản giải quyết vấn đề tài chính kinh tế, nhất là vấn đề lương thực và tiền tệ của Việt Nam là cần phải xóa bỏ triệt để toàn bộ chế độ và biện pháp tài chính kinh tế cũ do bọn thực dân Pháp để lại, xây dựng toàn bộ chế độ và biện pháp công tác kinh tế tài chính mới. Mao Chủ tịch và đồng chí Thiếu Kỳ còn chỉ thị cho chúng tôi : Biện pháp trưng thu công lương, thu hồi tiền tệ về ngân hàng và phát triển sản xuất mà Trung Quốc áp dụng trong thời kỳ chiến tranh chống Nhật và chiến tranh giải phóng về cơ bản thích dụng với Việt Nam, có thể cung cấp để các đồng chí ấy tham khảo.
Tôi và các cố vấn căn cứ vào chỉ thị đó của Mao Chủ tịch và đồng chí Thiếu Kỳ, xuất phát từ thực tế Việt Nam, kết hợp giới thiệu và vận dụng kinh nghiệm của Trung Quốc để giúp Việt Nam từ chính sách, phương châm, điều lệ, chế độ, nội quy của công tác tài chính kinh tế cho đến biện pháp thực thi cụ thể. Năm 1951, tình hình tài chính kinh tế của Việt Nam có chuyển biến rõ rệt. Cơ quan, bộ đội có lương thực ăn, không đói nữa, trong nhà dân lương thực cũng nhiều, tiền tệ tương đối ổn định, không có lạm phát, thị trường từng bước sôi động lên. Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp đều tỏ ra rất hài lòng trước tình hình đó. Thủ tướng Phạm Văn Đồng phấn khởi nói : “ Mao Chủ tịch, Đảng Trung Quốc viện trợ chúng tôi một cách vô tư, lại cử cố vấn giúp chúng tôi, năm 1950 giúp chúng tôi giành thắng lợi quan trọng trong chiến dịch Biên Giới, làm thay đổi tình hình kháng chiến của Việt Nam, khai thông đường giao thông biên giới Việt – Trung. Hiện nay (1951) lại giúp chúng tôi giải quyết vấn đề tài chính kinh tế khó khăn nhất, cấp bách nhất hiện nay, nhất là vấn đề lương thực, tiền tệ và phát triển sản xuất. Điều đó chứng tỏ đầy đủ chủ nghĩa quốc tế vĩ đại của Mao Chủ tịch, Đảng Trung Quốc, cũng nói lên đầy đủ tư tưởng Mao Trạch Đông và kinh nghiệm đấu tranh cách mạng của Trung Quốc là có sự giúp đỡ đối với Việt Nam.”
QUYẾT SÁCH TRỌNG ĐẠI: TRUNG QUỐC VIỆN TRỢ VIỆT NAM CHỐNG PHÁP
Trương Quảng Hoa
Hồ Chí Minh bí mật thăm Trung Quốc yêu cầu viện trợ
Một buổi chiều hạ tuần tháng 1/1950, trên đường đất gồ ghề ở huyện Quảng Hòa tỉnh Cao Bằng, Việt Nam, có một ông già, thân hình gầy gò, đầu quấn khăn mặt đi đến cửa Thủy Khẩu, Long Châu – Quảng Tây, Trung Quốc. Ông già đó chính là Hồ Chí Minh, Chủ tịch Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (lúc đó gọi là Đảng Cộng sản Đông Dương). Cùng đi với Hồ Chí Minh có Trần Đăng Ninh, Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam phụ trách công tác hậu cần của Quân đội Nhân dân Việt Nam và năm, sáu trợ lý.
Chuyến đi này của Hồ Chí Minh hoàn toàn bí mật, ngay cả lãnh đạo Trung ương Đảng Việt Nam cũng chỉ có số ít người biết.
Hồ Chí Minh vừa chủ trì triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 2 Đảng Cộng sản Việt Nam (*), khi phân tích tình hình đấu tranh trước mắt, toàn thể hội nghị nhất trí cho rằng : “ Thiếu quân chính quy, thiếu binh chủng và vũ khí hạng nặng công kiên, đánh thành, thiếu phương tiện thông tin nhanh, thiếu cán bộ thực sự hiểu được thao lược chỉ huy vận động chiến ” là vấn đề lớn nhất đặt ra trước mắt cuộc chiến tranh chống Pháp lúc bấy giờ. Vì vậy hội nghị nêu rõ, cần phải gấp rút đào tạo và xây dựng quân đội nhân dân, xây dựng bộ đội chủ lực thích ứng với tình hình đấu tranh mới. Mục đích chuyến thăm Trung Quốc lần này của Hồ Chí Minh là thông báo tình hình đấu tranh chống Pháp của Việt Nam với Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, yêu cầu Đảng Cộng sản Trung Quốc và Chính phủ Trung Quốc giúp xây dựng quân đội và cử nhân viên quân sự viện trợ cuộc đấu tranh chống Pháp của nhân dân Việt Nam.
Hồ Chí Minh rất quen thuộc cửa Thủy Khẩu. Trước kia, Người đã nhiều lần vào ra nơi đây vì sự nghiệp cách mạng Việt Nam, bây giờ nước Trung Quốc mới đã ra đời, lại đến đây, cảm nghĩ trong lòng khác xa ngày trước.
Theo chỉ thị của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, một số đồng chí phụ trách Ban bảo vệ quân khu Quảng Tây dẫn đầu ba mươi cán bộ chiến sĩ quân giải phóng đã sớm chờ đón Hồ Chí Minh ở đây.
Hồ Chí Minh từ từ đi tới, các đồng chí Trung Quốc lập tức ùa ra đón.
Hồ Chí Minh nói : “ Cám ơn, cám ơn ! Nơi đây bây giờ là cửa khẩu biên giới hữu nghị của nhân dân hai nước Trung – Việt, trước đây mỗi lần qua đây tôi phải thăm dò cẩn thận, thấp thỏm lo sợ, còn bây giờ thì hoàn toàn khác ”. Hồ Chí Minh đầu quấn khăn mặt trắng, hóa trang thành thương binh đi bộ đến Trung Quốc. Người đi dép cỏ, mặc quần áo vải, khuôn mặt gầy, lộ vẻ mệt nhỏ. Xuất phát từ Thái Nguyên, hơn mười ngày hành quân làm sao ông già 60 tuổi này không mệt ? Hồ Chí Minh nghỉ lại một đêm ở Long Châu – Quảng Tây, ngày hôm sau đến Nam Ninh, nghỉ ở khách sạn Kim Sơn, đường Dân Sinh.
Bí thư tỉnh ủy và chủ tịch tỉnh Quảng Tây, Trương Vân Dật tối hôm đó mở tiệc chào mừng Hồ Chí Minh và các vị khách Việt Nam. Trương Vân Dật nói với Hồ Chí Minh : “ Hiện nay Quảng Tây vừa mới giải phóng, thổ phỉ đặc vụ hoạt động rất điên cuồng, sản xuất công nông nghiệp đang chờ khôi phục, cải cách ruộng đất chưa bắt đầu, chúng tôi nhất định nỗ lực làm việc khiến Quảng Tây trở thành hậu phương vững chắc đáu tranh chống Pháp của Việt Nam ”. Lúc bấy giờ đường sắt Quảng Tây – Hồ Nam chỉ thông xe đến Lai Tân, Đông bắc Nam Ninh, đoàn Hồ Chí Minh phải đi ôtô từ Nam Ninh đến Lai Tân, rồi từ đó đáp xe lửa đi Bắc Kinh.
Trong mấy chục năm qua, hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh nhiều lúc tiến hành ở Trung Quốc. Trên đường lên Bắc Kinh, lòng Người xúc động, suy nghĩ miên man, những chuyện cũ cứ tầng tấng lớp lớp hiện lên.
* Năm 1924, Hồ Chí Minh từ Moskva đến Quảng Châu – Trung Quốc, Người ở đó cùng làm việc với những người cộng sản Trung Quốc cho đến năm 1927. “ Việt Nam cách mạng thanh niên đồng chí hội ”, tổ chức cách mạng đầu tiên lấy lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin làm chủ đạo, là do Người thành lập tại Quảng Châu.
* Năm 1930, Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập tại Hồng Kông. Lúc đó, Người nhiều lần từ Hồng Kông đến Thượng Hải hoạt động cách mạng. Mùa thu 1938, Hồ Chí Minh từ Liên Xô đến Diên An, tăng cường liên hệ với Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, sau đó từ Diên An đến văn phòng Bát lộ quân Quế Lâm, từ đó qua lại các nơi như Quý Dương, Trùng Khánh v.v..
* Tháng 2/1940, Hồ Chí Minh lãnh đạo công tác của Ban hải ngoại Đảng Cộng sản Việt Nam tại Côn Minh, tháng 5 năm đó, Hồ Chí Minh gặp Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp tại Côn Minh, theo đề nghị của Người, Ban hải ngoại nhận hai người Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp vào Đảng.
* Tháng 10/1940, Hồ Chí Minh từ Côn Minh đến Quế Lâm, ở đó thành lập “ Văn phòng Việt Nam độc lập Đồng minh hội ”, chẳng bao lâu sau lại thành lập “ Hội Đồng chí công tác văn hóa Trung – Việt ”.
* Tháng 8/1942, Hồ Chí Minh không may bị chính quyền địa phương Quốc dân đảng bắt tại huyện Đức Báo – Quảng Tây, giải qua nhiều nhà giam chịu mọi sự dày vò, đày đọa. Sau đó được hai đảng Trung – Việt, Hội Hoa kiều tại Việt Nam và cả nhân sĩ tiến bộ Quốc dân đảng tìm nhiều cách cứu thoát nên mới được trả tự do vào ngày 10/9/1943.
* Tháng 3/1945, vào giờ phút thắng lợi của các nước đồng minh, quân Pháp ở Đông Dương buộc phải đầu hàng quân Nhật. Hồ Chí Minh từ Côn Minh về nước, nhanh chóng triệu tập Hội nghị Trung ương Đảng, quyết định tổng khởi nghĩa vũ trang và đọc “ Tuyên ngôn độc lập: Tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ”.
Trong mấy năm, Hồ Chí Minh đã thành lập một lực lượng vũ trang khoảng 10 vạn người, nhưng do tố chất quân chính yếu kém, trang bị lạc hậu, khó đối phó với những cuộc tấn công của quân xâm lược đế quốc Pháp đang quay trở lại.
Lưu Thiếu Kỳ nói : “ Viện trợ Việt Nam là trách nhiệm chúng tôi, phải làm tròn ”
Cuối tháng 1/1950, Hồ Chí Minh đến Bắc Kinh. Lúc đó Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai đang thăm Moskva, Lưu Thiếu Kỳ chủ trì công tác hằng ngày của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Tối hôm đó, Lưu Thiếu Kỳ mở tiệc chào mừng long trọng tại Trung Nam Hải. Các vị lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chu Đức, Đồng Tất Vũ, Lưu Bá Thừa, Nhiếp Vinh Trăn, Lý Duy Hán v.v.. đến dự. Phía Việt Nam có Trần Đăng Ninh, Hoàng Văn Hoan v.v...
Trong bữa tiệc, khi Lưu Thiếu Kỳ nói đến Hồ Chí Minh tổ chức lớp huấn luyện chính trị Việt Nam ở Quảng Châu năm 1925 đến năm 1926, hỏi thăm thân thiết các đồng chí dự lớp huấn luyện năm ấy hiện nay còn những ai, Hồ Chí Minh nói Hoàng Văn Hoan có mặt hôm nay là một trong số người đó, không ít đồng chí đã hy sinh trong đấu tranh cách mạng.
Lần này, Hoàng Văn Hoan sẽ tạm thời ở lại Trung Quốc, sau khi đi vòng vèo đến Trung Quốc dự hội nghị công đoàn khu vực Á – Úc. Hồ Chí Minh nhớ lại nói một cách thắm thiết : “ Lúc đó khi tổ chức lớp huấn luyện ở Quảng Châu, Chu Ân Lai, Trương Thái Lôi, Bành Bái, Lý Phú Xuân, Đại Anh và một số đồng chí lãnh đạo cuộc bãi công lớn của tỉnh và Hồng Kông đều lên lớp giảng bài cho chúng tôi, đồng chí Thiếu Kỳ cũng là một trong những thày giảng bài của lớp huấn luyện. Chúng tôi rất biết ơn các đồng chí Trung Quốc quan tâm và giúp đỡ sự nghiệp cách mạng Việt Nam ”.
Hoàng Văn Hoan nói : “ Tôi là học viên khóa 3 của lớp huấn luyện, lúc đó học ở phố Nhân Hưng – Quảng Châu. Thông qua giảng dạy của các đồng chí Trung Quốc, chúng tôi học được rất nhiều kinh nghiệm quý báu trong cách mạng vô sản Trung Quốc ”. Nói đến đây, Hoàng Văn Hoan xúc động đứng lên nâng cốc, thay mặt các học viên lớp huấn luyện chúc rượu Lưu Thiếu Kỳ. Cốc rượu đó làm cho Hoàng Văn Hoan phấn chấn, đồng chí nói tiếp : “ Lúc đó, những người cách mạng hai đảng Trung – Việt chí đồng đạo hợp, thân như anh em. Lớp huấn luyện chính trị lúc bấy giờ không có nhà ăn, hằng ngày chúng tôi sang bên lớp tập huấn phong trào nông dân Trung Quốc ăn cơm, thường cùng các đồng chí Trung Quốc hát bài ca cách mạng 'đánh đổ đế quốc, diệt trừ quân phiệt, trừ diệt quân phiệt' v.v...”
Theo sự sắp xếp của Lưu Thiếu Kỳ, ngoài đồng chí Lưu Thiếu Kỳ, còn có các đồng chí Chu Đức, Nhiếp Vinh Trăn, Lý Duy Hán, Liêu Thừa Chí v.v.. tham gia hội đàm với các đồng chí Việt Nam v.v... Hồ Chí Minh nói : “ Chúng tôi rất phấn khởi chào đón thắng lợi của cách mạng Trung Quốc, thắng lợi của các đồng chí đã nâng cao niềm tin thắng lợi của chúng tôi, cung cấp rất nhiều kinh nghiệm quý báu cho chúng tôi. Chúng tôi hi vọng và yêu cầu các đồng chí Trung Quốc giúp đỡ chúng tôi huấn luyện bộ đội, xây dựng một quân đội nhân dân Việt Nam có sức chiến đấu tương đối mạnh; giúp chúng tôi chỉ huy tác chiến và chi viện cho chúng tôi về vật lực ”.
Lưu Thiếu Kỳ nói : “ Tình hình quốc tế hiện nay rất có lợi cho cuộc đấu tranh chống Pháp của Việt Nam. Trung Quốc đã quyết định công nhận Việt Nam và trao đổi với Liên Xô, đề nghị họ công nhận, khiến Việt Nam có vị thế quốc tế. Đảng chúng tôi cho rằng, viện trợ cuộc đấu tranh chống Pháp của nhân dân Việt Nam là trách nhiệm quốc tế mà Đảng Cộng sản Trung Quốc và nhân dân Trung Quốc phải làm tròn. Trung Quốc vừa mới giải phóng, mọi việc đều phải làm từ đầu, còn nhiệm vụ nặng nề như quét sạch bọn thổ phỉ đặc vụ, khôi phục kinh tế, cải cách ruộng đất v.v.., nhưng chúng tôi quyết tâm chi viện cuộc chiến tranh chống Pháp của Việt Nam, việc này sau khi Mao Chủ tịch và đồng chí Chu Ân Lai về nước, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ nghiêm chỉnh nghiên cứu nội dung và phương pháp viện trợ, chúng tôi sẽ xác định cụ thể theo yêu cầu của các đồng chí ”.
Hồ Chí Minh biết rằng, đối với việc lớn như thế này mà Lưu Thiếu Kỳ có thể xác định thái độ rõ ràng như vậy cho thấy lãnh đạo Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã sớm suy nghĩ về vấn đề này. Hồ Chí Minh còn nói với Lưu Thiếu Kỳ ông chuẩn bị sớm đi Liên Xô để gặp Trung ương Đảng Cộng sản liên Xô, gặp Stalin, yêu cầu Đảng và Chính phủ Liên Xô viện trợ. Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai đều ở Moskva, đến Liên Xô vào đúng lúc này có thể cùng trao đổi bàn bạc với các đồng chí đó. Hồ Chí Minh muốn Trung Quốc nhanh chóng sắp xếp liên hệ việc đồng chí đi Liên Xô”.
Lưu Thiếu Kỳ lập tức báo cáo Mao Trạch Đông về yêu cầu của Hồ Chí Minh đi Liên Xô và truyền đạt đến Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô; lãnh đạo hai nước Trung – Xô đều đồng ý Hồ Chí Minh đến Moskva.
Được biết Hồ Chí Minh sẽ đến thăm Liên Xô sớm, ngày 1-2 Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai đã gửi điện cho Lưu Thiếu Kỳ và yêu cầu báo cho Hồ Chí Minh : Hai nước Trung – Việt đã công nhận lẫn nhau và sắp thiết lập quan hệ ngoại giao, Liên Xô đã công nhận Việt Nam, các nước dân chủ mới khác dự tính cũng có thể công nhận (công hàm của Việt Nam yêu cầu các nước công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao, Đại sứ quán Trung Quốc tại Liên Xô đã chuyển đến sứ quán các nước dân chủ mới tại Liên Xô). Chúng tôi chúc mừng thắm thiết Việt Nam gia nhập đại gia đình dân chủ chống đế quốc do Liên Xô đứng đầu.
Mao Trạch Đông nói “ Trung Quốc chỉ có thể cử sang Việt Nam cố vấn vườn ”
Chiều 17/2, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh và Chu Ân Lai lên tàu hỏa về Bắc Kinh. Molotov và 1 số người lãnh đạo Liên Xô ra ga tiễn, tổ chức lễ tiễn đưa tại sân ga. Mao Trạch Đông phát biểu lời từ biệt, Hồ Chí Minh bí mật thăm Liên Xô nên yên lặng ngồi trong toa xe. Sau khi lên đường về nước, Mao Trạch Đông quyết định cứ đến mỗi ga lớn đều xuống xem xem, tìm hiểu tình hình các nơi dọc tuyến đường sắt. Hồ Chí Minh rất tán thành sắp xếp của Mao Trạch Đông.
* Ở Sverdlovsk, họ tham quan một nhà máy chế tạo cơ khí và trường đại học Sverdlovsk.
* Ở Omsk, sau khi dạo chợ, tham quan nhà máy chế tạo công cụ cơ khí, Mao Trạch Đông nhìn thấy một bộ phận sản phẩm của nhà máy này đang đóng thùng xuất xưởng, tiếp tục chở sang Trung Quốc.
* Ở Tân Siberi, tham quan hai nhà máy quân dụng, xem đoạn phim “Hoàng từ Igor” trong vũ kịch ba lê.
* Ở Krasnoyark, tham quan nhà máy sản xuất máy gặt liên hợp tự động, đi xem ca múa của Nga.
* Ở Irkutsk đi xem thành phố, tham quan nhà máy đóng gói chè. Chè của nhà máy này đều nhập khẩu từ Trung Quốc.
* Ở Chita, tham quan vườn trẻ. Hồ Chí Minh đặc biệt yêu thích trẻ em, các cháu ca múa làm cho đồng chí rất vui sướng.
Đoàn tàu tiếp tục tiến về phương Đông, đến ga cuối cùng của Liên Xô là ga Oterbur. Hồ Chí Minh ngắm nhìn ra cửa sổ, nơi chân trời xa dãy núi chập chùng, quanh năm tuyết phủ đỉnh núi, ruộng đồng hai bên đường sát cũng có màu trắng xóa. Người nheo đôi mắt, suy ngẫm cuộc hành trình Liên Xô và những điều nghe thấy trên đường... Stalin nói, công tác viện trợ cho Việt Nam chủ yếu do Trung Quốc phụ trách, nhưng Trung Quốc sẽ cung cấp viện trợ quân sự gì ? Liệu Trung Quốc có cử cố vấn quân sự cho Việt Nam không ?
Hồ Chí Minh quyết định hỏi rõ Mao Trạch Đông, nên đi đến toa xe của Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh nói ngay bằng tiếng Trung Quốc : “ Mao Chủ tịch, Stalin không chuẩn bị viện trợ trực tiếp cho chúng tôi, cũng không ký hiệp ước với chúng tôi, cuộc chiến tranh chống Pháp của Việt Nam từ nay về sau chỉ có thể dựa vào viện trợ của Trung Quốc ”.
Mao Trạch Đông ngắm nhìn Hồ Chí Minh thân thiết và hữu nghị : “ Chúng ta là đảng anh em, lại là láng giềng ! Về vật tư quân sự, cố gắng hết sức viện trợ cho các đồng chí là điều phải làm; tất nhiên đó là ý kiến của cá nhân tôi, còn phải do Trung ương quyết định ”.
Mao Trạch Đông cảm thấy nên nói lại cho rõ tình hình của Trung Quốc : “ Tất nhiên các đồng chí cũng đã rõ, công nghiệp quân sự của Trung Quốc cực kỳ lạc hậu, lực lượng của chúng tôi rất có hạn, quân giải phóng đánh bại Tưởng Giới Thạch chủ yếu dựa vào sự giúp đỡ và ủng hộ của quần chúng nhân dân. Trang bị vũ khí của quân giải phóng nhân dân tuyệt đại bộ phận là do đại đội trưởng vận tải Tưởng Giới Thạch chở đến, ngay cả một phiếu vay, chúng tôi cũng không viết cho ông ta ”.
Hồ Chí Minh nói: “trang bị vũ khí của người Pháp rất tốt, nhưng chúng tôi thu được rất ít”, “từ nay về sau chúng tôi phải học tập thật tốt kinh nghiệm của các đồng chí, nhưng quân đội nhân dân chúng tôi trang bị lạc hậu, rất ít được huấn luyện, càng thiếu cán bộ chỉ huy thật sự hiểu được chiến lược, chiến thuật. Vì vậy chúng tôi còn muốn yêu cầu Trung Quốc cử cố vấn quân sự các cấp quân đoàn, đại đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn, giúp chúng tôi huấn luyện bộ đội, xây dựng bộ đội và chỉ huy tác chiến. Đồng thời, tôi còn muốn, nếu Trung Quốc còn có thể cử ....”.
Mao Trạch Đông im lặng một lát : “ Hồ Chí Minh ơi ! Có những vấn đề phải căn cứ vào tình hình mọi mặt sau này để tính kế lâu dài và suy xét, tạm thời có thể không bàn được không. Về việc cử cố vấn quân sự sang Việt Nam, cũng như viện trợ vật tư quân sự, tôi tán thành. Đồng chí bảo đồng chí Võ Nguyên Giáp đưa ra phương án cụ thể. Sau khi chúng tôi về Bắc Kinh, Trung ương cũng phải nghiên cứu cụ thể để đưa ra quyết định chính thức ”. Mao Trạch Đông nói : “ Song tôi cũng phải nói rõ cán bộ chúng tôi cử sang là những cố vấn vườn ”.
Sau khi về đến Bắc Kinh, Hồ Chí Minh nêu ra với Chính phủ Trung Quốc, bổ nhiệm Hoàng Văn Hoan làm đại diện của Chính phủ và Đảng Việt Nam tại Trung Quốc (về sau đổi lại là Đại sứ), Mao Trạch Đông đồng ý.
Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc bí mật sang Việt Nam
Ngày 9/3/1950, đại diện liên lạc Đảng ta La Quý Ba, đến Việt Bắc, nơi ở của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương. Đồng chí và lãnh đạo Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp sau khi nghiên cứu nhất trí cho rằng việc đầu tiên cần làm trước mắt là khai thông giao thông biên giới Trung – Việt, để bảo đảm vật tư viện trợ Việt Nam có thể vận chuyển sang Việt Nam thuận lợi; vì vậy, cần phải tác chiến ở vùng Cao Bằng, Lào Cai miền bắc Việt Nam. Ngày 19/3 La Quý Ba điện báo Trung ương Đảng Trung Quốc: Phía Việt Nam định tổ chức chiến đấu ở khu vực Cao Bằng, Lào Cai, tiêu diệt quân địch ở đây và yêu cầu Trung Quốc lựa chọn điều động một số cán bộ quân đoàn, đại đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn, làm cố vấn cho quân đội Việt Nam.
Sau khi nhận được báo cáo của La Quý Ba, các đồng chí lãnh đạo Trung ương, Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ đã trao đổi rất rất nhanh, nhất trí cho rằng nên thỏa mãn yêu cầu của Việt Nam, nhanh chóng tổ chức vật tư quân sự viện trợ Việt Nam, trù tính tổ chức đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam.
Mao Trạch Đông nói tại cuộc họp : “ Chúng ta viện trợ Việt Nam là hoàn toàn không hoàn lại, không có bất cứ điều kiện gì. Tôi thấy hễ là nhu cầu thực tế của Việt Nam, chúng ta lại có thì hết sức cung cấp, phải cung cấp vật tư, cũng phải cử cố vấn quân sự ”.
Quân ủy Trung ương căn cứ vào quyết định của Trung ương, rất nhanh xác định Vi Quốc Thanh làm trưởng đoàn cố vấn quân sự. Lưu Thiếu Kỳ viết một bức thư, muốn Vi Quốc Thanh mang thư đi tìm lãnh đạo các Dã chiến quân, nhờ họ chọn cử cán bộ cho đoàn cố vấn quân sự.
Vi Quốc Thanh mang thư của Lưu Thiếu Kỳ tìm đến Đặng Tiểu Bình trước tiên : “ Đặng Chính ủy, Trung ương quyết định cử tôi đi Việt Nam công tác ở đoàn cố vấn quân sự, Lưu Thiếu Kỳ muốn tôi báo cáo với các đồng chí, nhờ Dã chiến quân 2 lựa chọn điều động một số cố vấn cho đoàn cố vấn ”.
Khi khởi nghĩa Bách Sắc năm ấy, Vi Quốc Thanh còn là một chàng trai trẻ, Đặng Tiểu Bình bóc thư cấp dưới của mình ra xem, mỉm cười nói : “ Thế này nhé, chúng tôi đều họp ở đây, đồng chí đi tìm từng người rất vất vả, chúng ta cùng đi gặp họ trao đổi thử xem ”.
Đặng Tiểu Bình và Vi Quốc Thanh cùng đến chỗ ở của Lâm Bưu, Đặng Tiểu Bình nói với Lâm Bưu : “ Trung ương quyết định cử đoàn cố vấn quân sự đi Việt Nam, Vi Quốc Thanh đến nhờ các Dã chiến quân chúng ta chọn điều động cán bộ, đồng chí Thiếu Kỳ còn có thư, chúng ta cùng đến chỗ Bành Đức Hoài bàn bạc xem sao ? ”. Lâm Bưu đồng ý, cùng đến chỗ ở của Bành Đức Hoài.
Sau khi Bành Đức Hoài và Lâm Bưu lần lượt xem thư của Lưu Thiếu Kỳ, Bành Đức Hoài phấn khởi nói : “ Hiện nay chiến tranh trong nước cơ bản đã chấm dứt, các đồng chí cần cán bộ gì thì cung cấp cán bộ nấy, cần bao nhiêu cấp bấy nhiêu, chúng tôi dốc toàn lực ủng hộ. Đồng chí cần bao nhiều người nói đi ”.
Vi Quốc Thanh nói : “ Hiện nay Việt Nam thành lập 3 đại đoàn (sư đoàn), có đại đoàn vừa mới thành lập sau khi La Quý Ba đến Việt Nam. Ý kiến của phía Việt Nam là ngoài cơ quan Bộ Tổng tham mưu ra, bước thứ nhất phải chọn cử cố vấn các cấp của ba sư sang Việt Nam ”.
Lâm Bưu cũng tỏ thái độ ngay, nói : “ Tôi hoàn toàn ủng hộ quyết định của Trung ương, cần bao nhiêu cấp bấy nhiêu, quyết không giảm bớt, mà còn phải chọn, điều động cho tốt cán bộ cử đi ”.
Đặng Tiểu Bình nói : “ Tôi thấy cố vấn của ba đại đoàn do Trung ương quyết định phân phối ! Để công tác thuận tiện, những người trong Ban chỉ huy đoàn cố vấn quân sự do Dã chiến quân số 3 của đồng chí lựa chọn điều động có được không ? ”.
Vi Quốc Thanh nói : “ Như thế cũng được, tôi báo cáo lại đồng chí Thiếu Kỳ ”.
Sáng hôm sau, Vi Quốc Thanh vội đến Trung Nam Hải báo cáo với Lưu Thiếu Kỳ.
Lưu Thiếu Kỳ nó i: “ Ý kiến của đồng chí Đặng Tiểu Bình rất hay, nhân viên do Dã chiến quân 3 điều động, có 3 đại đoàn còn có cố vấn cho một trường, cần ra thông tri nói rõ sự phân phối, cho các Dã chiến quân biết ”.
Vi Quốc Thanh nói: “ Liệu có nên để các Dã chiến quân 2, 3, 4 lựa chọn điều động cố vấn các cấp cho mỗi một đại đoàn, cố vấn và giáo viên của trường quân chính do Dã chiến quân số 4 lựa chọn điều động ! ”.
Lưu Thiếu Kỳ nói : “ Như thế là được đấy. Dã chiến quân 1 ở vùng Tây Bắc, nhiệm vụ cũng rất gian khổ phức tạp, người lại ít, lần này miễn cho họ ! Đồng chí, suy nghĩ rồi báo cáo với Nhiếp Vinh Trăn, xem đồng chí ấy còn có ý kiến gì nữa không, rồi đề nghị Trung ương ra thông tri ”.
Ngày 17/4, được Mao Trạch Đông phê duyệt, Quân ủy Trung ương ra thông tri: Mỗi Dã chiến quân số 2, 3, 4 điều động cố vấn các cấp cho một sư từ đại đoàn đến tiểu đoàn, do Dã chiến quân số 3 điều động bố trí nhân viên công tác trong Ban chỉ huy đoàn cố vấn quân sự, tổ chức thành Đoàn cố vấn quân sự sang Việt Nam. Ngoài ra, do Dã chiến quân số 4 điều động bố trí toàn bộ cố vấn giáo viên cho trường cán bộ quân chính quân đội nhân dân Việt Nam.
Trong “thông tri” đã quy định cụ thể sáu điều kiện cần phải có của cán bộ được lựa chọn, điều động như “ hoàn toàn trung thực vững vàng về chính trị, tư tưởng tiến bộ, tính kỷ luật cao, tác phong đứng đắn, có thể đoàn kết cán bộ ”, “ có năng lực nghiệp vụ nhất định và có tri thức xã hội nhất định ”, “ có trình độ văn hóa từ cấp 2 trở lên ”, “ tuổi dưới 40 ” v.v.., còn nhấn mạnh “ đây là một nhiệm vụ chính trị rất nặng nề ”, cần phải lựa chọn nghiêm túc, do các đồng chí phụ trách đại quân khu đích thân thẩm tra và được Trung ương thẩm tra cuối cùng, những người không đạt yêu cầu thì trả về, điều động người khác.
Trước khi Đoàn cố vấn quân sự còn chưa vào Việt Nam, Hồ Chí Minh đã điểm tướng, mời Trần Canh đến trước Việt Nam hỗ trợ hoạch định và tổ chức tác chiến ở vùng biên giới. Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đồng ý yêu cầu của Hồ Chí Minh. Ngày 7/7, Trần Canh dẫn đầu nhân viên của Đoàn cố vấn do Dã chiến 2 điều động rời Côn Minh đi Việt Nam.
Sáng ngày 27/6 các lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước: Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức thân mật tiếp hơn 40 nhân viên cố vấn của Bắc Kinh tại Di Niên đường, Trung Nam Hải. Mao Trạch Đông nói : “ Không phải tôi muốn cử các đồng chí sang Việt Nam, mà là Chủ tịch Hồ Chí Minh đến Trung Quốc yêu cầu chúng ta. Cách mạng chúng ta thắng lợi trước, nên giúp đỡ người ta, giúp họ gọi là chủ nghĩa quốc tế ”. Mao Trạch Đông lại nói : “ Trong lịch sử Trung Quốc ức hiếp Việt Nam ”. Mao Trạch Đông kể tỉ mỉ chuyện triều Hán “ Mã Viện đánh Giao Chỉ ”. Mao Trạch Đông nói : “ Sau khi đến Việt Nam, các đồng chí phải nói với họ, tổ tông xưa chúng tôi ức hiếp các đồng chí, chúng tôi tạ tội xin lỗi các đồng chí và một lòng một dạ giúp đỡ các đồng chí đánh bại bọn thực dân Pháp ”. “ Các đồng chí sang Việt Nam, phải ra quân là thắng lợi ”.
Sau buổi tiếp, ba người Vi Quốc Thanh, Mai Gia Sinh, Đặng Dật Phàm bàn bạc công việc của đoàn cố vấn ở Di Niên đường. Vi Quốc Thanh nói : “ Trung ương muốn tôi nắm công việc chung của đoàn cố vấn, tôi đành phải làm theo. Tôi suy nghĩ, Bộ Tư lệnh do đồng chí Mai Gia Sinh chủ trì, đồng chí Mai Gia Sinh làm tham mưu trưởng, công tác chính trị do đồng chí Đặng Dật Phàm phụ trách, tức Chủ nhiệm Ban chính trị ”.
Sau này sang Việt Nam, Mai, Đặng đều là phó đoàn trưởng đoàn cố vấn quân sự, còn các đồng chí trong đoàn cố vấn đều gọi “Mai tham mưu trưởng”, “Đặng chủ nhiệm”. Khi ba người đang trao đổi thì Lưu Thiếu Kỳ bước vào Di Niên đường nói : “ Các đồng chí còn cần ai nữa cứ nêu ra, sau đó chúng tôi phê chuẩn là được. Các đồng chí còn có vấn đề gì khó khăn cũng có thể nêu lên ”.
Vi Quốc Thanh nói : “ Trung ương đã sắp xếp cho chúng tôi rất chu đáo, đồng ý cấp phát ngoại lệ bút, giầy da, đồng hồ cho mỗi đồng chí, còn sẵn sàng sắp xếp chu đáo cho gia đình chúng tôi, mọi người rất hài lòng ”.
Sau khi đoàn cố vấn đến Nam Ninh, Chủ tịch, Bí thư tỉnh ủy tỉnh Quảng Tây – Trương Vân Dật nhìn thấy Vi Quốc Thanh trưởng thành từ quân đoàn 7 hồng quân khi mình lãnh đạo khởi nghĩa Bách Sắc tháng 12/1929, làm trưởng đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp, vô cùng phấn khởi và theo yêu cầu của Vi Quốc Thanh, đọc một bài phát biểu quan trọng trước toàn thể các đồng chí trong đoàn cố vấn quân sự, giúp Vi Quốc Thanh làm công tác động viên tư tưởng rất có tác dụng.
trancanh
Từ trái sang phải : Trường Chinh, Hồ Chí Minh, Trần Canh, La Quý Ba. Nguồn : QGP Trung Quốc
Trước khi đoàn cố vấn ra nước ngoài, đã chế định : “ Quy tắc công tác của đoàn cố vấn quân sự ”, làm cho mọi người có chuẩn tắc và yêu cầu rõ ràng trong công tác và hành động từ nay về sau, thành lập đảng ủy đoàn cố vấn quân sự do Vi Quốc Thanh làm Bí thư, Đặng Dật Phàm làm Phó Bí thư, Mai Gia Sinh, Mã Tây Phu, Lý Văn Nhất, Đặng Thanh Hà v.v.. làm ủy viên.
Ngày 9/8/1950, đoàn cố vấn quân sự từ Nam Ninh lên đường. Trên đường đi qua Điền Đông, Bách Sắc, Tịnh Tây, rạng sáng ngày 12/8 đến vùng Quảng Uyên tỉnh Cao Bằng, Việt Nam, nơi ở Bộ chỉ huy tiền tuyến chiến dịch biên giới của quân đội nhân dân Việt Nam, được các đồng chí lãnh đạo quân đội Việt Nam Võ Nguyên Giáp, Trần Đăng Ninh nhiệt liệt hoan nghênh.
Trong chiến tranh Việt Nam chống Pháp, Trung Quốc là nước duy nhất viện trợ số lớn quân sự không hoàn lại. Theo tài liệu hữu quan, Trung Quốc viện trợ cho quân đội nhân dân Việt Nam hơn 150.000 khẩu súng, hơn 3.000 khẩu pháo và số lớn đạn dược, xe cộ, quần áo, lương thực, thực phẩm phụ và đồ dùng hằng ngày khác như màn, khăn bông, bát tráng men v.v..
Một trong những nhiệm vụ của tôi công tác ở văn phòng đoàn cố vấn quân sự lúc bấy giờ là thống kê, nắm vững tình hình giao nhận vật tư quân sự viện trợ cho Việt Nam và báo cáo với lãnh đạo đoàn cố vấn.
Tôi cảm thấy thấm thía rằng, không có viện trợ số lớn, vô tư của Trung Quốc thì thắng lợi của chiến tranh Việt Nam chống Pháp sẽ không đến nhanh như thế.
Trương Quảng Hoa
(đăng trên Viêm Hoàng xuân thu số 5 năm 1999.
Khi đưa vào cuốn sách này, tác giả có sửa chữa đôi chút.)
Từ trái sang phải : Trường Chinh, Hồ Chí Minh, Trần Canh, La Quý Ba. Nguồn : QGP Trung Quốc
CHÚ THÍCH của Diễn Đàn :
(*) Tác giả nhầm năm tháng. Đại hội dại biểu toàn quốc của ĐCSVN họp một năm sau đó, vào tháng 2 năm 1951.
(**) Không thích hợp - altus.
ĐỒNG CHÍ VI QUỐC THANH TRONG VIỆN TRỢ VIỆT NAM ĐẤU TRANH CHỐNG PHÁP
Vu Hoá Thầm
Cuộc đời binh mã của Vi Quốc Thanh văn võ song toàn trải qua trăm trận, lập nhiều chiến công. Chiến tranh giải phóng thắng lợi chưa được bao lâu đồng chí vâng lệnh dẫn đầu đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống pháp hỗ trợ Quân đội Nhân dân Việt Nam tác chiến và xây dựng và cống hiến quan trọng trong việc giành thắng lợi của chiến tranh chống Pháp. Có một lần tiếp khách nước ngoài, một đồng chí lãnh đạo Trung ương nói, thời kỳ chiến tranh Việt Nam chống Pháp có hai trận đánh lớn, một là chiến dịch Biên Giới, Trần Canh giúp chỉ huy, hai là chiến dịch Điện Biên Phủ, Vi Quốc Thanh giúp chỉ huy. Bài viết này tường thuật, tóm lược chặng đường đặc biệt đó của Vi Quốc Thanh nhất là vai trò quan trọng của đồng chí trong cuộc quyết chiến Điện Biên Phủ.
Vi Quốc Thanh
Tổ chức Đoàn sang Việt Nam
Tháng 2/1950, Vi Quốc Thanh đang là chính uỷ binh đoàn số 10 kiêm chủ nhiệm Uỷ ban quân quản thành phố Phúc Châu, nhận được điện của Trung ương gọi đồng chí về Bắc Kinh nhận nhiệm vụ mới. Đồng chí bàn giao xong công tác rất nhanh cùng vợ mới cưới là Hứa Kỳ Thanh vội vàng lên đường. Về đến Bắc Kinh mới biết là cấp trên cần đồng chí chuyển sang công tác ngoại giao. Sau đó, hai người tham gia lớp bồi dưỡng nghiệp vụ ngoại giao, nhưng vẫn chưa được giao nhiệm vụ mới. Một ngày thượng tuần tháng 4 vừa xuất viện sau khi mổ ruột thừa, đang ở chiêu đãi sở của Quân uỷ Trung ương, thì Vi Quốc Thanh được Lưu Thiếu Kỳ gọi vào Trung Nam Hải. Lưu Thiếu Kỳ nói : “ Theo yêu cầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương quyết định cử đoàn cố vấn quân sự sang Việt Nam giúp Việt Nam tiến hành chiến tranh chống Pháp. Trưởng đoàn Đoàn cố vấn quân sự này do đồng chí đảm nhiệm ”.
Vi Quốc Thanh lập tức bày tỏ : “ Tôi phục tùng quyết định của Trung ương, có điều là xưa nay tôi chưa làm cố vấn ”. Đồng chí Thiếu Kỳ nói : “ Chúng tôi xem xét thấy đồng chí tương đối thích hợp. Chỉ huy đánh giặc, công tác ở trường quân sự thì khỏi phải nói, tiểu tổ đàm phán đồng chí cũng đã làm rồi, đã giao thiệp với người Mỹ rồi. Đồng chí lại là người Quảng Tây sang Việt Nam công tác có mặt thuận lợi ”. Cuối cùng Lưu Thiếu Kỳ đặc biệt thân thiết dặn dò : “ Đồng chí Quốc Thanh, Mao Chủ tịch rất quan tâm đánh giặc xâm lược Việt Nam, các đồng chí phải làm cho tốt. Có khó khăn gì đồng chí hãy đến tìm chúng tôi, Trung ương phân công tôi phụ trách việc này. Bây giờ phải nhanh chóng tiến hành công tác tổ chức Đoàn cố vấn, điều quan trọng nhất là chọn cán bộ điều động một loạt cán bộ thích hợp với lựa chọn công tác cố vấn. Tôi đã viết cho đồng chí một bức thư, đồng chí cầm thư này đi gặp mấy đồng chí phụ trách Dã chiến quân ở Bắc Kinh, thương lượng trực tiếp với các đồng chí ấy. Cán bộ phải do các đồng chí ấy lựa chọn điều động ”. Lúc này, chiến tranh giải phóng vừa kết thúc, trăm công nghìn việc đang chờ đợi, cán bộ rất thiếu.
Đồng chí Vi Quốc Thanh cầm thư của Lưu Thiếu Kỳ trước tiên tìm gặp đồng chí Đặng Tiểu Bình lúc đó làm chính uỷ Dã chiến quân số 2 ở Bắc Kinh. Đặng Tiểu Bình là thủ trưởng cũ của Vi Quốc Thanh. Vi Quốc Thanh xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo dân tộc Choang ở huyện Đông Lan – Quảng Tây. Sau khi tham gia khởi nghĩa Bách Sắc năm 1929 đồng chí được phân công về Đội súng ngắn quân đoàn Hồng Quân công tác, canh gác cho Quân đoàn trưởng Trương Văn Dật, Chính uỷ Đặng Tiểu Bình. Dưới sự lãnh đạo của hai đồng chí, Hồng quân đánh địa chủ cường hào, chia ruộng đất, xây dựng và phát triển căn cứ địa Hữu Giang, về sau quân đoàn 7 chuyển sang chiến đấu ở 5 tỉnh Quảng Tây, Quý Châu, Hồ Nam, Quảng Đông, Giang Tây, trải qua 8 tháng, hành trình hơn 12.000 dặm, đánh hơn 100 trận lớn nhỏ, đi đến căn cứ địa khu Xô Viết Trung ương. Lần “ trường chinh nhỏ ” này, đấu tranh quyết liệt, gian khổ vô cùng. Chính trong cọ xát chiến đấu khốc liệt này, Vi Quốc Thanh đã trưởng thành là một chiến sĩ Hồng quân kiên cường, trở thành một cán bộ chỉ huy sơ cấp dũng cảm mưu trí của Quân đoàn 7 Hồng quân. Sau này, trong chiến dịch Hoài Hải, Vi Quốc Thanh là người chỉ huy binh đoàn, lại dưới sự lãnh đạo của Bộ chỉ huy chiến dịch Hoài Hải do Đặng Tiểu Bình làm chính uỷ truy kích chặn viện, rong ruổi khắp nơi, chiến công lừng lẫy.
Gặp Vi Quốc Thanh, Đặng Tiểu Bình hết sức phấn khởi. Sau khi hiểu rõ lý do Vi Quốc Thanh đến tìm, đã nói với Vi Quốc Thanh : “ Nhiệm vụ mà đồng chí nhận vô cùng quan trọng. Cố vấn có thể lựa chọn, điều động từ các Dã chiến quân, nhưng trợ lý của đồng chí và nhân viên công tác của đoàn đều nên do Dã chiến 3 bố trí. Ở trong nước, đoàn trưởng, chính uỷ chúng ta còn có chuyện mất đoàn kết, ở nước ngoài trước trên phải làm tốt đoàn kết nội bộ, nếu không rất bất lợi cho công tác ”. Đặng Tiểu Bình còn nói : “ Để đồng chí chạy khắp nơi, chi bằng mời mấy vị tư lệnh ngồi lại với nhau, đồng chí trình bày trực tiếp tốt hơn ”. Vi Quốc Thanh nghe nói hết sức phấn khởi, đây quả là chuyện gặp may.
Ngày hôm sau, Tiểu Bình trực tiếp mời mấy vị thủ trưởng Dã chiến quân như Bành Đức Hoài ngồi lại với nhau, Vi Quốc Thanh tự tay đưa lá thư của Lưu Thiếu Kỳ và nói rõ việc liên quan đến lựa chọn điều động cố vấn sang Việt Nam. Các đồng chí lãnh đạo đến họp đều nhất trí bày tỏ : “ Chiến tranh trong nước đã kết thúc, hiện nay cử đoàn cố vấn quân sự giúp nước anh em, chống đế quốc xâm lược, thực hành nghĩa vụ quốc tế vô sản nhiệm vụ quan trọng, ý nghĩa to lớn, chúng tôi kiên quyết ủng hộ. Cần cán bộ cấp cán bộ, cần trang bị cấp trang bị, cần gì cấp nấy, cần bao nhiêu cấp bấy nhiêu ”. Vi Quốc Thanh không ngờ việc tổ chức đoàn cố vấn, một vấn đề cực kỳ quan trong này lại được giải quyết thuận lợi như vậy, tất nhiên rất phấn khởi. Đồng chí kính phục từ đáy lòng tinh thần xuất phát từ toàn cục, nhìn xa trông rộng của các đồng chí lãnh đạo, lập tức báo cáo với Lưu Thiếu Kỳ.
Trung tuần tháng 4, Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc căn cứ vào yêu cầu số lượng cố vấn ra lệnh cho các Dã chiến quân số 2, 3, 4 về việc lựa chọn điều động cố vấn các cấp và nhân viên công tác của đoàn cố vấn cũng như chuẩn bị vật tư v.v... Quy định mỗi Dã chiến quân nói trên, tuyển chọn điều động đủ số cán bộ làm cố vấn cho đại đoàn (bao gồm ba cấp đại đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn). Ngoài ra, Dã chiến 3 phụ trách tuyển chọn điều động cố vấn và nhân viên công tác của Ban chỉ huy Đoàn cố vấn.
Đảng uỷ và Thủ trưởng các Dã chiến quân rất coi trọng nhiệm vụ này. Được Túc Dụ đích thân quan tâm, Dã chiến quân 3 xác định lãnh đạo tổng đội số 3 Đại học quân chính Hoa Đông thành lập Ban chỉ huy Đoàn cố vấn. Tổng đội trưởng Mai Gia Sinh đảm nhiệm Tham mưu trưởng Đoàn cố vấn (sau đổi lại là Phó đoàn trưởng). Mai Gia Sinh là một cán bộ có tài văn võ, chiến công xuất sắc, từng giữ chức Tham mưu trưởng lữ đoàn 3 sư 1 Tân Tứ Quân, Phó quân đoàn trưởng kiêm Tham mưu trưởng quân đoàn 23 v.v.. Chủ nhiệm Ban chính trị Tổng đội số 3 Lý Văn Nhất làm cố vấn chính trị Ban chỉ huy. Chính uỷ Tổng đội số 3 Đặng Dật Phàm trước định điều về công tác tại Tổng cục Chính trị, đang ở Bắc Kinh chờ lệnh, sau khi Lưu Thiếu Kỳ và La Vinh Hoàn trao đổi, đã tuyển làm chủ nhiệm Ban chính trị Đoàn cố vấn (sau đổi gọi là Phó đoàn trưởng). Đặng Dật Phàm tham gia Hồng quân năm 1930 từng giữ các chức bí thư trưởng Tân Tứ Quân, chủ nhiệm ban chính trị tung đội, Phó chính uỷ quân đoàn v.v.. có kinh nghiệm công tác chính trị phong phú. Trong thời gian ở Việt Nam, Mai, Đặng rất tôn trọng Vi Quốc Thanh ba người đồng tâm hiệp lực, phối hợp chặt chẽ.
Các Dã chiến quân đều rất nhanh tuyển chọn điều động một loạt cán bộ quân sự chính trị hậu cần có kinh nghiệm chiến đấu thực tế và trình độ chính trị nhất định báo cáo lên Quân uỷ Trung ương, trong đó có 59 cán bộ cấp tiểu đoàn trở lên, tất cả có 281 người kể cả thư ký, nhân viên cơ yếu và cảnh vệ v.v...
Ngày 20/5, quân uỷ Trung ương điện cho các cán bộ từ cấp trung đoàn trở lên dự tính sang Việt Nam làm cố vấn về Bắc Kinh để nghe chỉ thị trực tiếp của các đồng chí lãnh đạo Trung ương. Thượng tuần tháng 6, cán bộ cấp trung đoàn trở lên lần lượt về Bắc Kinh có Mai Gia Sinh, Chu Hạc Vân, Mã Tây Phu, Vu Bộ Huyết, Đậu Kim Ba, Lâm Quân Tài, Trương Hưng Hoa v.v.. Nhưng cho đến ngày 27 tháng 6, tức hai ngày sau nổ ra chiến tranh Triều Tiên, các lãnh đạo chủ chốt của đảng và nhà nước mới từ trong cảnh vô cùng bận rộn thu xếp được thì giờ tiếp thân mật những người trong đoàn cố vấn về Bắc Kinh và có chỉ thị quan trọng.
Sáng hôm đó, Vi Quốc Thanh và hơn 20 cố vấn, thư ký, cơ yếu lên xe đến Di Niên đường trong Phong Trạch Viên Trung Nam Hải. Mọi người nhìn thấy trong kiến trúc kiểu cung điện mang phong cách truyền thống Trung Quốc này bày biện rất đơn giản. Trong phòng kê hai chiếc bàn dài, mấy chục cái ghế đẩu và ghế dài sắp thành nửa hình cánh cung quay về phía bàn. Mọi người chờ đợi một lát, Chu Đức và Lưu Thiếu Kỳ lần lượt bước vào. Sau khi đồng chí Lưu Thiếu Kỳ lên tiếng mời mọi người ngồi xuống, đã đứng lên nói : “ Hôm nay mời các đồng chí đến đây là để nói đến vấn đề các đồng chí sang Việt Nam công tác. Lẽ ra, Mao Chủ tịch, Chu Thủ tướng cũng muốn đến gặp mặt các đồng chí. Nhưng Triều Tiên đã đánh nhau, tình hình rất căng thẳng. Điều đó quan hệ đến vận mệnh của Triều Tiên, cũng quan hệ đến an ninh của đất nước chúng ta, cho nên Trung ương rất quan tâm đến tình hình này, bận lắm. Mấy hôm nay Chủ tịch rất vất vả. Chủ tịch làm việc đêm bây giờ đang ngủ, chúng tôi không đánh thức đồng chí. Chu Thủ tướng đang bận họp, cũng không thể đến được ”.
Lưu Thiếu Kỳ quay sang nói với Chu Đức Tổng tư lệnh “ Bác nói trước ! ”. đồng chí Chu Đức nói : “ Đồng chí Lưu Thiếu Kỳ nói trước đi ! ”.
Lưu Thiếu Kỳ tiếp tục nói : “ Trung ương cử các đồng chí sang Việt Nam là chấp hành một nhiệm vụ vô cùng khó khắn. Trung ương ra quyết định này là có lý do quan trọng. Đi thì có phiền phức, nhưng nếu chúng ta không đi giúp Việt Nam, để bọn xâm lược nằm lì ở đó, thì khó khăn của chúng ta sẽ lớn hơn, phiền phức cũng lớn hơn. Hai ngàn năm trước Mã Viện của Trung Quốc, tức là tướng quân Phục Ba đã chinh phục Việt Nam. Còn ngày nay chúng ta sang Việt Nam, thì ý nghĩa hoàn toàn khác. Chúng ta đi giúp người ta giải phóng, là đi giúp nước anh em. Sau khi sang đó các đồng chí, phải giúp Việt Nam xây dựng quân đội chính quy, tiến hành tác chiến chính quy, và nhất định phải tổ chức đánh thắng trận ”.
Lưu Thiếu Kỳ chỉ rõ : “ Thời gian cách mạng Việt Nam thắng lợi sẽ không quá nhanh, tôi thấy cần ba năm chuẩn bị ”.
Đồng chí còn đặc biệt dặn dò : “ Phải chú ý làm tốt đoàn kết với các đồng chí Việt Nam. Chúng ta không làm chủ quản cho họ, chỉ làm cố vấn. Có thể nêu ra nhiều biện pháp để người ta quyết định. Người ta cũng có thể không nghe ý kiến của anh. Nhưng nếu làm tốt quan hệ, thì lời nói của anh sẽ được áp dụng ”. Tiếp đó Chu Đức nói chuyện trước tiên đồng chí nhấn mạnh : “ Chúng ta là những người theo chủ nghĩa quốc tế, có trách nhiệm giúp đỡ Việt Nam. Đây sẽ là một nhiệm vụ lâu dài, gian khổ và phải bảo đảm bí mật. Cần phải coi đây là nhiệm vụ là nhiệm vụ quốc tế lớn lao, không được tiếc bất cứ thứ gì để giúp Việt Nam đến thắng lợi ”.
Chu Đức chỉ ra : “ Về hành động quân sự chúng ta phải thực sự cầu thị không được nóng vội. Nguyên tắc là có con người thế nào đánh thứ ấy. Cần phải biết đánh trận dũng cảm và lại khôn khéo, quan trọng nhất là khôn khéo ”. Chu Đức lại nêu rõ : “ Tự lực cánh sinh là cái gốc của thắng lợi cách mạng nước ta. Dù thế nào chăng nữa cũng phải giúp Việt Nam xây dựng căn cứ địa vững chắc, kiên trì nguyên tắc tự lực cánh sinh. Các đồng chí sang Việt Nam công tác rất gian khổ, phải chuẩn bị tinh thần đó. Người cộng sản chúng ta, phải chịu đựng gian khổ, phải tính đến phấn đấu gian khổ lâu dài ”.
Chu Đức chưa kết thúc bài nói của mình thì đồng chí Mao Trạch Đông chậm rãi bước vào. Mọi người đều đứng dậy vỗ tay. Lưu Thiếu Kỳ ra đón Mao Trạch Đông nói : “ Mấy hôm nay đồng chí rất mệt, muốn để đồng chí ngủ thêm một lát, nên không đánh thức đồng chí ”.
Mao Trạch Đông nói : “ Chà ! Không ngủ được ”. Sau đó đồng chí bắt tay Vi Quốc Thanh, Mai Gia Sinh, Đặng Dật Phàm, rồi lại lần lượt bắt tay từng người và thân mật hỏi thăm tình hình tên tuổi, chức vụ, tuổi tác v.v...
Lưu Thiếu Kỳ mời Mao Trạch Đông nói chuyện. Mao Trạch Đông nói : “ Các đồng chí đều nói cả rồi còn gì ? Tôi nói nữa sẽ trùng lặp ”. Mọi người đều muốn Mao Chủ tịch cho chỉ thị. Vì thế Mao Chủ tịch bảo mọi người ngồi xuống, bắt đầu nói. Mao Chủ tịch nói : “ Không phải tôi muốn cử các đồng chí đi Việt Nam, mà là Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu tôi. Ai bảo cách mạng chúng ta thắng lợi trước, thì phải giúp đỡ người ta, đó gọi là chủ nghĩa quốc tế. Các đồng chí đến Việt Nam, trước hết phải giúp Việt Nam đánh thắng trận. Mở ra được một địa phương để tập trung quân đội, sau đó trận sẽ càng đánh càng lớn. Việc đầu tiên sau khi các đồng chí đến Việt Nam là phải đoàn kết tốt với các đồng chí Việt Nam, đặc biệt là phải đoàn kết tốt với lãnh đạo Việt Nam. Phải chú ý không đoàn kết tốt, thì thà đừng làm việc còn hơn ”.
Sau khi kể chuyện lịch sử “ Mã Viện đánh Giao Chỉ ”, Mao Chủ tịch nói : “ Trong lịch sử từ đời Hán trở đi, Trung Quốc đã từng ức hiếp Việt Nam. 80 năm trước chính phủ Mãn Thanh cắt nhượng Việt Nam cho Pháp. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc tốt, bị nước ngoài cai trị và áp bức lâu dài, họ căm thù người Pháp, rất nhạy cảm đối với người nước ngoài. Các đồng chí có thể nói với các đồng chí Việt Nam. Tổ tông xưa của chúng tôi đã từng ức hiếp các đồng chí, chúng tôi tạ tội xin lỗi các đồng chí ”.
Mao Chủ tịch nói tiếp : “ Mấy năm gần đây tình hình cách mạng Việt Nam phát triển rất nhanh, thành tích rất tốt. Không nên coi thường người ta. Tôi biết cử các đồng chí đến một nơi gian khổ đối mặt với những nhiệm vụ rất nặng nề. Nếu mắc bệnh sốt rét có thể nguy hiểm, hy sinh. Phải chuẩn bị khác phục nhiều khó khăn, thực tế không chiều theo ý mình đâu. Bao giờ các đồng chí có thể trở về ? Đừng vội. Vân Nam, Quảng Tây có thể làm hậu phương. Các đồng chí đến Việt Nam, có thể thắng lợi dễ dàng, cũng có thể có khó khăn, nhưng cuối cùng nhất định phải thắng lợi. Chúng ta giúp người ta cần phải giúp cho tốt. Trước mặt quần chúng Việt Nam, không được biểu hiện tư tưởng kiêu ngạo chúng ta là người chiến thắng. Người ta đều biết thắng lợi của chúng ta không cần mình phải nói ra. Đối với những khuyết điểm sai lầm của người ta, có thể nói cho họ biết, chúng tôi cũng có thất bại. Giới thiệu nhiều với họ bài học kinh nghiệm, ít nói “ qua năm ải chém sáu tướng ”. Trong quá trình giúp đỡ người ta, phải thường xuyên kiểm điểm lời nói và hành động của mình ....”.
Mao Chủ tịch còn nói : “ Lần này cử đồng chí Vi Quốc Thanh làm Đoàn trưởng Đoàn cố vấn. Đáng lẽ ra để đồng chí đi công tác ở Liên Hợp Quốc, nhưng Liên Hợp Quốc bị Mỹ thao túng, không cho chúng ta vào. Sau này lại muốn để đồng chí đi làm đại sứ ở Anh, nhưng Anh lúc nào cũng lưỡng lự nước đôi đối với chúng ta, ở đó chỉ có thể hạ cấp. Không cử đại sứ nữa. Thế là để đồng chí đi Việt Nam làm Đoàn trưởng Đoàn cố vấn. Đồng chí đã đồng ý, như thế rất tốt, người cộng sản ở đâu cần thì đến đó, có thể đến nơi hoàn cảnh thoải mái cũng có thể đến nơi gian khổ… Hễ công việc yêu cầu thì các thứ khác đều không so đo. Điều này, các đồng chí phải học tập đồng chí Vi Quốc Thanh ”.
Cuối cùng, Mao Trạch Đông : “ Chúc các đồng chí thắng lợi, mạnh khoẻ ” để kết thúc cuộc nói chuyện.
Sau buổi tiếp có tính lịch sử ở Di Niên đường Trung Nam Hải, cố vấn các cấp và nhân viên công tác lần lượt trở về các đơn vị cũ, chuẩn bị hành trang hạ tuần tháng 7 tập trung tại Nam Ninh, Quảng Tây.
Vi Quốc Thanh từ Bắc Kinh xuống Quảng Châu rồi đi đường thuỷ về Nam Ninh. Sau khi đến Nam Ninh, đồng chí lập tức đến chào thủ trưởng cũ. Tư lệnh kiêm Chính uỷ Quân khu Quảng Tây Trương Văn Dật. Hai người gặp nhau vô cùng mừng rỡ. Trương Văn Dật nói với Vi Quốc Thanh, theo điện chỉ thị của Quân uỷ Trung ương đã sắp xếp ổn thoả vấn đề ăn ở, sinh hoạt cho cố vấn, nhân viên tập huấn ở Nam Ninh, tuyệt đối bảo đảm bí mật, hãy yên tâm. Vi Quốc Thanh hết sức cám ơn.
Trước đó, Trung ương đã cử Trần Canh làm đại diện Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, và dẫn đầu toàn thể cán bộ của một đại đoàn được Dã chiến quân số 2 tuyển chọn điều động làm cố vấn đã lên đường từ Côn Minh sang Việt Nam. Vì vậy đến Nam Ninh tập huấn chỉ có cán bộ do Dã chiến quân 3, 4 tuyển chọn điều động. Sau nửa tháng tập huấn, Vi Quốc Thanh trước tiên tuyên bố thành lập Đoàn cố vấn, tiếp đó truyền đạt phát biểu quan trọng của lãnh đạo Trung ương cho đoàn thể cố vấn và nhân viên công tác. Qua thảo luận nghiêm túc, đã xây dựng “quy chế công tác của Đoàn cố vấn ở nước ngoài” làm nguyên tắc hành động của toàn thể đồng chí công tác tại Việt Nam. Được Trung ương phê chuẩn, đã thành lập Đảng uỷ Đoàn cố vấn do Vi Quốc Thanh làm Bí thư, Đặng Dật Phàm làm Phó Bí thư. Cuối cùng mời Hoàng Văn Hoan Đại sứ Việt Nam đầu tiên tại Trung Quốc từ Bắc Kinh xuống Nam Ninh giới thiệu tình hình cơ bản của Việt Nam.
Ngày 9/8, theo sự sắp xếp của Quân khu Quảng Tây, những người trong đoàn cố vấn lên đường từ Nam Ninh bằng ôtô. Trương Vân Dật đích thân tiễn đến ngoại ô, đồng chí nói với mọi người : “ Đáng lẽ tôi phải triệu tập nhân dân Nam Ninh tổ chức lễ tiễn đưa long trọng các đồng chí, gửi lời chào các đồng chí. Nhưng sứ mệnh của các đồng chí là bí mật, không thể tiễn đưa công khai. Chỉ có tôi đại diện cho Đảng, quân dân Quảng Tây đến tiễn đưa các đồng chí, chúc các đồng chí lên đường thuận lợi ”.
Sau khi đi qua Điền Đông, Bách Sắc đến Tịnh Tây, tối 11/8, có Hoàng Văn Hoan cùng đi, trong màn đêm bàng bạc, Đoàn cố vấn vượt qua biên giới Trung – Việt núi sông liền dải, rạng sáng ngày 12 đến Bộ chỉ huy tiền tuyến chiến dịch biên giới của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Chiến thắng Biên Giới
Huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng nằm sát biên giới huyện Tịnh Tây, Quảng Tây, Trung Quốc, là một trong những căn cứ của Đảng Cộng sản Việt Nam (lúc bấy giờ là Đảng Cộng sản Đông Dương, sau tháng 2/1951 đổi tên gọi là Đảng Lao động Việt Nam) ở Việt Bắc. Ở đây non xanh nước biếc, xóm làng trù phú. Bộ chỉ huy tiền tuyến chiến dịch Biên Giới của Quân đội Nhân dân Việt Nam đóng trong mấy thôn bản dân tộc thiểu số. Rạng sáng ngày 12/8, khi Vi Quốc Thanh dẫn đầu Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc đến nơi được phía Việt Nam hoan nghênh nhiệt liệt. Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam Võ Nguyên Giáp thân chinh ra đón tận ngoài làng. Qua Hoàng Văn Hoan giới thiệu, hai người bắt tay thân thiết, Võ Nguyên Giáp liên tiếp nói hoan nghênh và nói “ vất vả quá ” bằng tiếng Trung Quốc khá lưu loát. Vi Quốc Thanh ngắm nghía tỉ mỉ người bạn hợp tác tương lai này : người hơi thấp hơn mình tuổi tác tương đương mình, ngũ quan cân xứng da mặt trắng nõn, ánh mắt ngời sáng long lanh, tỏ rõ uy nghi phong độ, lịch sự nho nhã. Võ Nguyên Giáp đích thân đưa Vi Quốc Thanh đến nơi ở của đồng chí – trong một nhà sàn bằng gỗ, nói chuyện chốc lát rồi từ biệt để Vi Quốc Thanh nghỉ ngơi.
Hành quân suốt đêm, Vi Quốc Thanh cảm thấy hơi mệt, lúc này lại không buồn ngủ. Đồng chí biết rằng, từ bây giờ trở đi, đứng trước hoàn cảnh chiến đấu hoàn toàn mới, bắt đầu chặng đường chiến đấu một mình gánh vác trên chiến trường nước ngoài. Hoàn thành nhiệm vụ lớn lao và khó khăn này thật không phải dễ. Mỗi bước đi đều phải hết sức thận trọng, suy nghĩ chín chắn. Công tác của đoàn cố vấn nên bắt đầu từ đâu ?
Đồng chí suy nghĩ rất nhiều lần vấn đề này. Vừa tìm hiểu tình hình, vừa giúp phía Việt Nam công tác chuẩn bị cho chiến dịch biên giới. Đó là phương châm công tác trước mắt mà đồng chí định ra cho mình và Đoàn cố vấn.
Vi Quốc Thanh bắt đầu công việc khẩn trương song nề nếp. Tổ cố vấn quân sự, chính trị, hậu cần của Đoàn cố vấn và tổ cố vấn của các Bộ đội lần lượt đến Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần và các bộ đội ở các nơi, triển khai công tác khẩn trương.
Hạ tuần tháng 7 đồng chí Trần Canh đã đến Thái Nguyên, nơi đóng trụ sở của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, sau khi đến chào Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 14/8 cùng lên chỗ Bộ chỉ huy tiền phương chiến dịch Biên Giới Quân đội Nhân dân Việt Nam và gặp mặt đoàn cố vấn. Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc giao nhiệm vụ cho Trần Canh là giúp Việt Nam tổ chức chiến dịch Biên Giới và thống nhất xử lý vấn đề Trung Quốc viện trợ quân sự cho Việt Nam.
Trần Canh và Vi Quốc Thanh đã quen biết nhau từ lâu. Trong cuộc trường chinh hai vạn năm nghìn dặm, khi Trần Canh làm đoàn trưởng đoàn cán bộ Trung ương thì Vi Quốc Thanh là Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn đặc biệt dưới sự lãnh đạo của Trần Canh. Hai người lâu năm chưa gặp, nay gặp nhau ở nước ngoài, dạt dào xúc động. Vì Đoàn cố vấn công tác dưới sự chỉ đạo của Trần Canh, Vi Quốc Thanh càng đặc biệt vui mừng.
Trần Canh và Vi Quốc Thanh thông qua trao đổi với Võ Nguyên Giáp và nghe Bộ Tổng Tham mưu quân đội Việt Nam giới thiệu tình hình, đã hiểu được tình hình cơ bản của hai phía địch và bạn, và tình hình chuẩn bị chiến dịch :
1 – Chiến tranh chống Pháp của Việt Nam tuy đã bước vào năm thứ năm, nhưng Quân đội Nhân dân Việt Nam về cơ bản vẫn ở giai đoạn đánh du kích, chưa qua chiến đấu đánh, tiêu diệt một tiểu đoàn địch hoàn chỉnh trở lên. Hiện nay tuy đã thành lập 2 đại đoàn (đại đoàn 304 và 308) và 3 trung đoàn độc lập (trung đoàn 174, 209, 148) nhưng đại đoàn đoàn đều chưa qua tác chiến tập trung, trung đoàn cũng rất ít có kinh nghiệm tác chiến tập trung, về cơ bản vẫn là lấy tiểu đoàn, đại đội làm đơn vị phân tán tiến hành chiến tranh du kích. Dân quân, du kích có khắp cả nước chiếm lĩnh vùng nông thôn rộng lớn, không ngừng phá rối, tiêu hao đánh địch. Đoàn cố vấn đều cử tổ cố vấn đến hai đại đoàn và ba trung đoàn chủ lực nói trên, cả ba cấp đại đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn đều có cố vấn giúp công tác. Các bộ đội nói trên đều đã được Trung Quốc trang bị, huấn luyện, hoặc đang trang bị huấn luyện. Hiện nay đóng gần Cao Bằng có đại đoàn 308, trung đoàn 174 và trung đoàn 209, ngoài ra có một trung đoàn sơn pháo. Đại đoàn 304 đóng ở vùng Thanh Hoá phía bắc Trung Bộ, trung đoàn 148 hoạt động ở vùng Lào Cai – Tây Bắc như vậy có nghĩa là, toàn bộ binh lực có thể đưa vào chiến dịch Biên Giới là 5 trung đoàn bộ binh và 1 trung đoàn pháo binh và một số bộ đội địa phương.
2 – Quân Pháp tổ thành rất phức tạp. Có binh đoàn người da trắng, cũng gọi là binh đoàn quốc tịch nước ngoài 1, chủ yếu do tù binh Đức, tù binh Liên Xô và một số nước Đông Âu trong chiến tranh thế giới thứ hai, và số ít phạm nhân người Pháp tổ thành, sĩ quan chỉ huy đều là người Pháp. Có binh đoàn da đen, chủ yếu do binh lính người da đen 2 thuộc các nước Maroc, Tunisie và Algérie thuộc địa của Pháp tổ thành, sĩ quan chỉ huy cũng đều là người Pháp. Quân Pháp tác chiến chủ yếu dựa vào hoả pháo và công sự, thiếu ý thức tấn công, sức chiến đấu không mạnh. Ngoài ra còn có một bộ phận nguỵ quân, sức chiến đấu càng yếu, chủ yếu đóng giữ cứ điểm. Ở Bắc Bộ, quân Pháp khống chế đường giao thông thành phố thị trấn vùng đồng bằng sông Hồng và khu vực Tây Bắc, giữ ưu thế và chủ động về chiến lược. Đầu năm 1950, quân Pháp và quân nguỵ trên toàn Đông Dương có tất cả 230.000 người. Do Quân đội Nhân dân Việt Nam ngày càng lớn mạnh, chiến tranh du kích khắp các nơi trong nước, buộc quân Pháp chia quân ra phòng thủ, ngày càng bộc lộ nhược điểm chí mạng là thiếu lính, binh lực phân tán.
Ảnh chụp tại An Toàn Khu, từ người thứ nhì (bên trái sang) : Hoàng Quốc Việt, Tôn Đức Thắng, Phạm Văn Đồng, Lý Hàm Trân (vợ La Quý Ba), Hồ Chí Minh, x, La Quý Ba, Trường Chinh, x...
3 – Trước khi đoàn cố vấn vào Việt Nam, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cử La Quý Ba 3 làm đại diện liên lạc, trung tuần tháng 3 đã đến trụ sở của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, thảo luận nhiều lần với Việt Nam về vấn đề phát động chiến dịch biên giới, quyết định vùng Cao Bằng biên giới đông bắc Việt Nam giáp Quảng Tây làm hướng tấn công chính của chiến dịch. Trên quốc lộ số 4 từ Cao Bằng đi Tiên Yên (Quảng Ninh) theo hướng đông nam, quân Pháp xây dựng một loạt cứ điểm kiên cố để phong toả biên giới Trung – Việt, bao vây và uy hiếp căn cứ địa Việt Bắc. Mở một chiến dịch thắng lợi ở vùng này, có thể phá vỡ sự phong toả của địch, khai thông tuyến giao thông Trung – Việt, có lợi cho viện trợ của Trung Quốc đối với Việt Nam, và loại bỏ mối đe doạ đối với căn cứ địa Việt Bắc, có ý nghĩa rất quan trọng. Phía Việt Nam đã làm rất nhiều việc chuẩn bị cho chiến dịch, nhưng chưa thống nhất ý kiến đối với cách đánh trong chiến dịch, càng chưa hình thành phương án tác chiến. Lúc này, không ít tư tưởng chỉ đạo trong Quân đội Nhân dân vẫn câu nệ ở chỗ được mất một thành phố này một địa phương kia, mà không chú trọng vào tiêu diệt sinh lực địch. Vì vậy họ chủ trương đánh Cao Bằng trước cho rằng Cao Bằng là tỉnh lỵ là cứ điểm phòng ngự hạt nhân của hệ thống phòng ngự trọng điểm trên tuyến phong toả biên giới mà quân Pháp ra công tính toán bao năm, đánh lấy Cao Bằng không chỉ có ý nghĩa quân sự to lớn, mà còn có ảnh hưởng chính trị rất lớn.
Căn cứ vào tình hình trên, Trần Canh và Vi Quốc Thanh đã nghiên cứu tỉ mỉ phòng tuyến quốc lộ 4 của Pháp. Hai người cảm thấy, quân địch đóng giữ Cao Bằng có 3 tiểu đoàn, hơn 1000 tên, địa thế hiểm trở, công sự kiên cố, dễ phòng thủ khó tấn công, theo khả năng công kiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam trước mắt, rất khó gặm cục xương cứng này. Họ phát hiện trên phòng tuyến từ Cao Bằng đến Lạng Sơn dài hơn 100 km, ở giữa có hai cứ điểm Đông Khê và Thất Khê. Đông Khê cách Cao Bằng hơn 40 km về phía bắc, cách Thất Khê hơn 20 km về phía nam, cách Lạng Sơn, sáu bảy mươi kilômét, hơn 1 tiểu đoàn, bảy tám trăm quân địch đóng giữ. Đột phá từ đây có thể cô lập quân địch ở Cao Bằng, tạo cơ hội diệt viện. Kiến giải của anh hùng đại thể giống nhau, hai người không hẹn mà gặp, nhất trí đồng ý coi Thất Khê là điểm đột phá của chiến dịch. Họ lại thảo luận cao khả năng phát hiện của chiến dịch, đều đi đến nhất trí ý kiến.
Tại một cuộc họp của lãnh đạo Bộ Tổng tham mưu Việt Nam, Trần Canh phân tích biện chứng vấn đề chọn đột phá khẩu của chiến dịch và khả năng phát triển của chiến dịch như thế nào, đưa ra kiến nghị toàn diện. Nêu rõ địa thế Cao Bằng hiểm trở, ba mặt là sông, sau lưng là núi cao, công sự kiên cố, dễ phòng thủ khó tấn công, là cục xương cứng. Điều đó đối với Quân đội Nhân dân Việt Nam thiếu kinh nghiệm công kiên mà nói, là khó khăn rất nhiều, dễ trở thành đánh tiêu hao, lợi bất cập hại. Nếu trận đầu không thắng, nhất định sẽ ảnh hưởng rất bất lợi đối với toàn bộ chiến dịch. Vì vậy tốt nhất không đánh Cao Bằng trước, mà đánh cứ điểm Đông Khê nằm giữa Cao Bằng và Thất Khê. Quân địch đóng giữ Đông Khê chỉ có một tiểu đoàn, bố phòng không kiên cố lắm vả lại rất cô lập, địa hình cũng có lợi cho ta tấn công, nằm chắc phần thắng tương đối lớn. Đánh lấy Đông Khê, chặt đứt sống lưng quốc lộ 4, cô lập Cao Bằng. Như vậy buộc địch ở Thất Khê, Lạng Sơn có thể đưa quân chi viện, sẽ tạo cơ hội có lợi tiêu diệt càng nhiều quân địch trong vận động.
Nếu địch ở Thất Khê không đưa quân chi viện thì sau khi giải quyết Đông Khê thừa thắng đánh lấy Thất Khê, cuối cùng tập trung toàn bộ binh lực tấn công Cao Bằng và ra sức tiêu diệt địch trong vận động. Tiến công Đông Khê, tương đối nắm chắc thắng lợi. Mà trận đầu thắng lợi sẽ cổ vũ mạnh mẽ sĩ khí, gây ảnh hưởng có lợi cho toàn bộ chiến dịch. Tiêu diệt quân địch đóng giữ Đông Khê và Thất Khê sẽ làm cho lòng quân đóng giữ Cao Bằng lâm cô lập dao động. Còn Quân đội Nhân dân Việt Nam trải qua nhiều lần chiến đấu, kinh nghiệm nhiều lên, niềm tin thắng lợi càng đầy đủ lúc đó lại đánh Cao Bằng tương đối dễ giành thắng lợi.
Sự phân tích có hệ thống, thấu đáo đó của Trần Canh thuyết phục người lãnh đạo phía Việt Nam. Qua thảo luận, lãnh đạo Việt Nam nhất trí, đồng ý ý kiến của Trần Canh. Căn cứ vào đó, Đoàn cố vấn quân sự giúp cụ thể Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam vạch kế hoạch tác chiến chiến dịch biên giới.
Lúc ấy, Hồ Chí Minh đã từ hậu phương lên tiền tuyến. Người đã phê chuẩn kế hoạch tác chiến chiến dịch biên giới và chỉ rõ : “ Chiến dịch này chỉ được thắng, không được thua ”. Người vô cùng tín nhiệm yêu cầu Trần Canh bảo đảm thắng lợi của chiến dịch này. Trần Canh nói : “ Tôi nhất định dốc sức giúp đánh tốt trận này, nhưng đánh trận chủ yếu còn dựa vào cán bộ chỉ huy bộ đội và quần chúng nhân dân Việt Nam ”. Để quán triệt thực thi kế hoạch tác chiến nói trên, Vi Quốc Thanh khẩn trương bận rộn tiến hành các công việc. Đồng chí luôn luôn liên hệ với các tổ cố vấn bộ đội tham chiến, tìm hiểu tình hình, giải đáp vấn đề, bố trí công tác; kịp thời bàn bạc với Mai Gia Sinh, Đặng Dật Phàm và cố vấn hậu cần Mã Tây Phu, giúp cơ quan các Tổng cục quân đội nhân dân Việt Nam làm tốt các công tác chuẩn bị chiến dịch. Dưới sự giúp đỡ hết mình của các tổ cố vấn, các công tác chuẩn bị cho cuộc vận động chiến quy mô lớn đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam vào thượng tuần tháng 9 đã cơ bản hoàn tất. Ngày 16/9, chiến dịch Biên Giới bắt đầu. Đêm 16/9, Trung đoàn 174 bộ đội chủ công được pháo binh phối hợp, mở cuộc tấn công quân địch ở Đông Khê. Dưới sự yểm trợ của các loại hoả lực, Quân đội Nhân dân Việt Nam lần lượt chiếm lĩnh một số cứ điểm ngoại vi Đông Khê, nhưng triến triển chậm chạp sau khi tiến gần tới trung tâm phòng ngự của địch. Sáng sớm ngày 17, địch phản kích dưới sự yểm trợ của máy bay. Do Quân đội Nhân dân Việt Nam thiếu kinh nghiệm, chỉ huy không kịp thời, nên rút lui khỏi trận địa đã chiếm lĩnh.
Sau khi Trần Canh và Vi Quốc Thanh biết được tình hình này hết sức lo lắng, lập tức đến bộ chỉ huy tiền tuyến Quân đội Nhân dân, gặp Võ Nguyên Giáp, cùng nghiên cứu nguyên nhân tấn công bị thất bại, ra lệnh cho bộ đội điều chỉnh sự bố trí, bao vây chặt, đề phòng địch phá vây, đến tối sẽ tấn công lại.
Tối 17, do bộ đội tuyến trước không hành động theo bố trí đã định trước, chỉ tấn công từ một phía, làm cho địch tập trung được hoả lực ngoan cố chống cự. Đến nửa đêm, tấn công vẫn chưa đạt hiệu quả, bộ đội thương vong khá lớn, lại chuẩn bị rút khỏi cuộc lui chiến đấu. Sau khi Trần Canh và Vi Quốc Thanh chăm chú theo dõi phát triển của trận đánh biết được tình hình này đã lập tức khẩn cấp kiến nghị với Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp : “ Ra lệnh cho bộ đội tiếp tục kiên trì không tiếc bất cứ giá nào, đồng thời điều chỉnh lại bố trí, đổi thành tiến công cả bốn phía, trọng điểm nhằm vào phía Bắc và phía Nam ”. Phía Việt Nam chấp nhận kiến nghị này. Vi Quốc Thanh lập tức điện thoại cho Trương Chí Thiện cố vấn trung đoàn 174 biết ý đồ này ; ra lệnh cho Trương giúp người chỉ huy trung đoàn này nhanh chóng điều chỉnh bố trí, chuẩn bị tốt cho việc đánh tiếp. Trước khi trời hừng sáng, tấn công lại lần nữa, kịch chiến đến 8g ngày 18, cuối cùng tiêu diệt toàn bộ quân địch.
Sau khi cuộc chiến đấu kết thúc điều tra ra, quân địch đóng giữ Đông Khê chỉ có hơn 2 đại đội, không đến 400 tên, quân đội Việt Nam với binh lực 7000 người, tấn công hai đêm, thương vong 500 người mới thắng. Mặc dù cái giá rất lớn, nhưng mục tiêu bước đầu của chiến dịch đã đạt được, tức là một thắng lợi không nhỏ. Quân đội Việt Nam đánh được Đông Khê làm cho Vi Quốc Thanh mấy ngày qua căng thẳng tinh thần cao độ thở phào. Nhưng súc khoẻ của đồng chí không trụ nổi. Trong hoàn cảnh chiến tranh lâu dài, đồng chí mắc bệnh viêm dạ dày mãn tính và thần kinh suy nhược. Sau này ở Bắc Kinh lại viêm ruột thừa, chuyển sang viêm màng ổ bụng, sau khi ra viện bận việc tổ chức Đoàn cố vấn, sức khoẻ chưa được phục hồi tốt. Sau khi vào Việt Nam chưa được mấy ngày, đồng chí lại mắc bệnh dạ dày, đau bụng đi lỏng, liên tục uống thuốc không khỏi. Đồng chí nổi nóng cáu gắt với quân y đi theo cũng chẳng được gì. Sức khoẻ đồng chí ngày càng gầy yếu, vẫn kiên trì công tác khẩn trương.
Sau tấn công Đông Khê, Trần Canh và Mai Gia Sinh, Đặc Dật Phàm khuyên bảo, đồng chí mới về điều trị ở bệnh viện lục quân tại Long Châu, Quảng Tây. Theo kế hoạch chiến dịch dự định, sau khi lấy được Đông Khê, nếu địch ở Thất Khê không ra chi viện, thì thừa thắng tấn công tiêu diệt địch ở Thất Khê. Nhưng lúc này Trần Canh biết được, lính địch đóng giữ ở Thất Khê tăng lên 4 tiểu đoàn. Theo kinh nghiệm của trận Đông Khê, nếu với lực lượng hiện có của quân đội Việt Nam tấn công tiêu diệt địch ở Thất Khê là rất khó khăn. Sau khi Trần Canh cùng Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp nghiên cứu, thay đổi kế hoạch ra lệnh cho đại đoàn 308 tiếp tục mai phục ở nam Đông Khê, chờ thời cơ tiêu diệt địch.
Trong 10 ngày sau đó, quân địch ở Thất Khê vẫn không động tĩnh. Lúc này một số cán bộ Quân đội Nhân dân Việt Nam nảy sinh tư tưởng nôn nóng và oán trách. Có người nói, đánh Đông Khê là sai lầm, tiêu hao lực lượng của mình, lại không có viện binh để đánh, cũng tiêu mất thời cơ có lợi đánh Cao Băng. Có người nói địch ở Thất Khê không xuất quân chi viện, chi bằng đưa quân lên phía bắc đánh Cao Bằng. Có người chủ trương rút quân về bảo vệ Thái Nguyên. Bởi vì lúc này quân Pháp đã tập trung binh lực mấy tiểu đoàn, đang tấn công vào vùng Thái Nguyên trụ sở cơ quan đầu não của Đảng, Chính phủ, quân đội Việt Nam.
Trần Canh không dao động trước những lời bàn tán đó. Đồng chí tin chắc bộ chỉ huy quân Pháp sẽ không bỏ mặc hơn 1000 quân ở Cao Bằng. Theo phán đoán bố trí của quân Pháp đã làm, nhất định còn chuyện tiếp. Đồng chí kiến nghị với Võ Nguyên Giáp, thuyết phục cán bộ, nhẫn nại kiên trì, bình tĩnh chờ đợi hành động tới của quân địch, nắm bắt thời cơ tiêu diệt địch. Trần Canh còn cho rằng địch tấn công Thái Nguyên là kế điệu hổ ly sơn. Để đánh lừa quân địch, đề nghị bộ chỉ huy tiền tuyến Quân đội Nhân dân cho trung đoàn 174 vờ di chuyển về phía nam Thất Khê. Hành động này quả nhiên có hiệu quả. Bọn địch nhầm tưởng chủ lực quân đội nhân dân Việt Nam quay xuống phía nam bảo vệ Thái Nguyên, vẫn thực hiện kế hoạch chi viện dự định của họ, rơi vào thòng lọng do Trần Canh dăng sẵn.
Đêm 30/9, binh đoàn Lepage của Pháp tiến vào bắc Thất Khê, hòng chiếm lại Đông Khê, để tiếp ứng cho binh đoàn Charton sẽ rút khỏi nam Cao Bằng. Sau khi bị trung đoàn 209 quân đội Việt Nam chặn đánh, quân Pháp buộc phải triển khai bộ đội chiếm đóng một số điểm cao nam Đông Khê, không vào được Đông Khê. Biết được tình hình này, Trần Canh rất phấn khởi, cho rằng thời cơ tiêu diệt địch đã đến. Nhưng lúc này vì bộ đội thiếu lương thực, đại đoàn 308 có trên một nửa chiến sĩ lên hướng Thuỷ Khẩu Trung Quốc vác gạo. Điều đó làm cho Trần Canh rất lo lắng. Đồng chí một mặt kiến nghị khẩn cấp với Võ Nguyên Giáp ra lệnh cho bộ đội nhanh chóng tập trung đón địch, mặt khác điện thoại cho Vương Thạc Tuyền cố vấn đại đoàn 308, yêu cầu đồng chí đôn đốc phía Việt Nam cấp tốc tập trung bộ đội để bao vây, tấn công địch, được một tiểu đoàn xuất phát một tiểu đoàn, được một đại đội xuất phát một đại đội, không chậm trễ một phút.
Dưới sự chỉ huy quyết đoán của Trần Canh, nói chung là tóm được kẻ địch. Nhưng do tổ chức không chặt, hiệp đồng cũng không tốt, dẫn đến phần lớn cuộc tấn công chưa đạt hiệu quả. Ngày 3/10, binh đoàn Charton Cao Bằng bỏ chạy xuống phía nam, nhưng bị bộ đội địa phương Việt Nam chặn đánh, nên tiến quân chậm chạp. Đêm hôm đó, binh đoàn Lepage lợi dụng thời cơ ban đêm quân đội Việt Nam ngừng tấn công, lén lút luồn qua núi Cốc Xá, ở tây quốc lộ 4, tây nam Đông Khê 7 km, chiếm lĩnh địa hình có lợi, chờ Charton tiếp ứng binh đoàn cùng chạy về phía nam. Ngày hôm sau, binh đoàn Charton được biết binh đoàn Lepage chưa chiếm được Đông Khê, mà chỉ vào núi Cốc Xá, nên không dám tiến theo quốc lộ 4 nữa, phá ôtô, đại bác và quân nhu, đi lối tắt đến điểm cao 477 gần núi Cốc Xá, hòng gặp binh đoàn Lepage, rồi cướp đường chạy về Thất Khê.
Trần Canh cho rằng, tình thế địch ta hiện nay rất có lợi cho ta, cơ hội tiêu diệt địch khó có, cần phải trước hết cần kiên quyết, nhanh chóng tiêu diệt binh đoàn Lepage sau đó di chuyển binh lực tiêu diệt binh đoàn Charton, quyết không cho chúng tập họp chạy về phía nam.
Ngày 4, quân đội Việt Nam truy đuổi về hướng vùng núi Cốc Xá, và liên tục triển khai tấn công quân địch chiếm núi Cốc Xá. Cuộc chiến đấu khá quyết liệt, tuy giết chiết làm bị thương một số quân địch, nhưng chưa có tiến triển rất lớn, bộ đội ta cũng có không ít thương vong, có một số cán bộ bắt đầu kêu khổ.
Tối ngày 4, Bộ chỉ huy Tiền phương Quân đội Việt Nam ra lệnh cho bộ đội tạm ngừng tấn công để nghỉ ngơi chỉnh đốn. Đồng thời Võ Nguyên Giáp gọi điện thoại cho Trần Canh nói : “ Căn cứ phán đoán tình hình địch, hai cánh quân địch sẽ có thể nhanh chóng gặp nhau, lực lượng sẽ được tăng cường. Bộ đội đã đánh liên tiếp 3 ngày liền, tương đối mệt nên chăng rút về nghỉ ngơi chỉnh đốn ? ” Trần Canh nghe thế vội nói ngay : “ Một trận như thế này mà không đánh nữa thì không có trận nào nữa đâu ”. Võ Nguyên Giáp vẫn kiên trì ý kiến của mình : “ Bộ đội quá mệt tôi thấy rất khó tiến công...” Nhìn thấy thời cơ rất tốt sắp bỏ qua, Trần Canh cũng không nhẫn nhịn được nữa, nói to trước ống nghe : “ Nếu trận này không đánh nữa thì tôi xin cuốn gói chuồn ”. Ngừng một lát, Trần Canh lại nói : “ Vào giờ phút then chốt này, bộ chỉ huy mà dao động thì chôn vùi thời cơ rất tốt để chiến dịch thắng lợi ”. Trần Canh dập máy xuống.
Trần Canh suy nghĩ một lát để bình tâm trở lại rồi lập tức cầm bút viết thư cho Hồ Chí Minh kiến nghị Người mệnh lệnh và cổ vũ bộ đội tiền tuyến không sợ hy sinh, anh dũng chiến đấu, nhanh chóng tiêu diệt binh đoàn Lepage, sau thắng lợi lập tức di chuyển binh lực tiêu diệt binh đoàn Charton. Đồng chí Trần Canh cũng điện báo kế hoạch này cho Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Hồ Chí Minh tiếp nhận kiến nghị của Trần Canh, lập tức ra chỉ thị cho bộ đội tiền tuyến.
Ngày 6/10, Mao Trạch Đông điện trả lời Trần Canh, nêu rõ : “ Các đồng chí phải nhanh chóng, kiên quyết, triệt để tiêu diệt quân địch ở tây nam Đông Khê, cho dù thương vong tương đối lớn cũng không nên quá lo, không nên dao động (phải tính đến trong cán bộ có thể có tình hình đó), ngoài ra, phải bám chặt bọn địch trốn khỏi Cao Bằng, không để chúng chạy thoát. Và phải có bố trí trước việc quân địch ở Lạng Sơn có thể đưa quân chi viện. Chỉ cần ba việc trên được xử lý xác đáng thì thắng lợi thuộc về các đồng chí ”.
Trần Canh xem điện trả lời của Mao Trạch Đông rất phấn khởi, lập tức báo cáo với Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh cũng rất phấn khởi. Quân đội Việt Nam được Hồ Chí Minh cổ vũ tinh thần phấn chấn hẳn lên. Trải qua chiến đấu quyết liệt, binh đoàn Lepage đã không chống cự nổi. Chiều ngày 6, Lepage dẫn tàn binh bại tướng lùi về trong hang Dơi cố thủ. Sáng ngày 7, tiểu đoàn 130 quân đội Việt Nam bao vây hang này, người phó của Lepage vừa ra cửa hang, bị một tràng đạn của quân đội Việt Nam bắn chết. Lepage và nhân viên tham mưu đành phải nộp súng đầu hàng quân đội Việt Nam.
Thắng lợi tiêu diệt toàn bộ binh đoàn Lepage cổ vũ rất lớn tinh thần binh lính quân đội Việt Nam, làm lung lay dữ dội lòng quân của binh đoàn Charton. Đại đoàn 308 lập tức chuyển quân tấn công tiêu diệt binh đoàn Charton. Chiều cùng ngày binh đoàn Charton cũng bị tiêu diệt hoàn toàn. Đại tá Charton và tỉnh trưởng nguỵ quyền Cao Bằng đều bị bắt sống. Hai binh đoàn Lepage và Charton bị tiêu diệt làm cho quân Pháp trên phòng tuyến quốc lộ 4 hết sức kinh hoàng, lũ lượt tháo chạy, từ Thất Khê, Đồng Đăng, Lạng Sơn, Đình Lập cho đến vùng phụ cận Tiên Yên ven biển. Phòng tuyến quốc lộ 4 mà quân Pháp ra công xây dựng ba năm bị sụp đổ hoàn toàn. Đến đây kết thúc thắng lợi chiến dịch Biên Giới.
Chiến dịch này tiêu diệt tất cả 8 tiểu đoàn hoàn chỉnh, hơn 8000 tên địch bị chết, bị thương, bị bắt làm tù binh, thu được rất nhiều vũ khí đạn được, giải phóng 18 thành phố, thị trấn và và khu vực có 350.000 dân, khai thông tuyến giao thông biên giới Trung – Việt, làm cho vùng giải phóng Việt Bắc mở rộng và củng cố, thay đổi rất lớn tình thế chiến lược địch ta trên chiến trường Bắc Bộ. Vi Quốc Thanh điều trị tại bệnh viện lục quân Long Châu, thân tại bệnh viện, tâm tại tiền tuyến, luôn luôn quan tâm theo dõi cuộc chiến phát triển. Bệnh tình có chuyển biến tốt, đồng chí vội ra viện, cùng với Trần Canh, có Võ Nguyên Giáp cùng đi, thị sát Lạng Sơn mà mới lấy lại. Sau đó về đến chỗ ở Nam Sơn. Ngày 10/10, Vi Quốc Thanh đưa ra kiến nghị bằng văn bản với Võ Nguyên Giáp về làm tốt công tác tổng kết chiến dịch, và đích thân chỉ đạo các tổ cố vấn giúp Việt Nam làm công tác tổng kết chiến dịch.
Sau khi nhận lời phát biểu tổng kết chiến dịch suốt 4 ngày ròng tràn đầy nhiệt tình với cán bộ từ cấp tiểu đoàn trở lên của bộ đội tham gia chiến dịch, ngày 29/10 Trần Canh gửi điện cho Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc : “ Tôi đã hoàn thành nhiệm vụ công tác ở Việt Nam, năng lực đoàn cố vấn rất mạnh, không cần thiết lưu lại ở đây, xin về Bắc Kinh báo cáo công tác ”.
Ngày 30, Trung ương phúc đáp điện đồng ý Trần Canh về nước. Vì thế ngày 1/11 Trần Canh rời Nam Sơn, Việt Bắc trở về tổ quốc, Vi Quốc Thanh cử thư ký Nghiêm Dục Sinh đi tiễn.
Tác chiến đồng bằng
Sau chiến thắng lớn biên giới, phát triển thắng lợi như thế nào là vấn đề Vi Quốc Thanh suy nghĩ trước tiên. Ở Bắc Bộ Việt Nam, có hai chiến trường có thể lựa chọn. Một là vùng đồng bằng sông Hồng, ở đây dân cư đông đúc của cải dồi dào, giao thông thuận tiện, là khu vực phòng thủ trọng điểm của quân Pháp. Một là vùng Tây Bắc, núi cao rừng rậm, dân cư thưa thớt, giao thông bất tiện quân Pháp phòng ngự tương đối yếu. Vi Quốc Thanh, Mai Gia Sinh, Đặng Dật Phàm đều cho rằng : mở chiến trường Tây Bắc, đánh mấy chiến dịch, giành lấy vùng Tây Bắc làm cho nó liền một dải với căn cứ địa Việt Bắc, tiến có thể công thoái có thể thủ, tương đối có lợi. Nhưng kiến nghị này không được phía Việt Nam chấp nhận.
Lúc này, quân đội Việt Nam từ trên xuống dưới đều nhằm vào vùng đồng bằng sông Hồng. Kiên trì muốn tác chiến ở đồng bằng, trực tiếp uy hiếp Hà Nội, thực hiện tổng phản công. Vi Quốc Thanh qua phân tích cho rằng cứ điểm quân Pháp ở vùng đồng bằng dày đặc, địa hình thoáng rộng, giao thông thuận tiện có lợi cho quân địch nhanh chóng tăng viện, cũng tiện cho việc phát huy hoả lực của pháo và không quân, điều đó rất bất lợi cho quân đội nhân dân Việt Nam. Nhưng cũng có điều kiện có lợi, cư dân phần lớn là dân tộc Kinh, cơ sở quần chúng khá tốt, có sự phối hợp của đội du kích. Địch hậu lại là vùng lương thực có thể cung cấp tại chỗ. Vi Quốc Thanh cảm thấy phía Việt Nam kiên trì tác chiến vùng đồng bằng cũng có đạo lý nhất định. Nhất là đồng chí nhớ tới lời dặn của các đồng chí lãnh đạo Trung ương luôn luôn nhấn mạnh đoàn kết tốt với đồng chí Việt Nam, nên đồng ý với ý kiến của Việt Nam. Vì thế trong thời gian nửa năm từ tháng 12/1950 đến tháng 6/1951, quân đội Việt Nam liên tiếp mở ba chiến dịch ở vùng ven đồng bằng sông Hồng.
Sau khi Vi Quốc Thanh và Võ Nguyên Giáp nghiên cứu, trước tiên chĩa mũi tấn công vào vùng trung du sông Hồng. Phương án tác chiến Vi Quốc Thanh đưa ra được phía Việt Nam tiếp nhận là : sử dụng sư 308 và hai trung đoàn của sư 312 vừa thành lập, áp dụng cách đánh bôn tập đường xa, bao vây cứ điểm, đánh chặn chi viện, lấy tiêu diệt 3-5 tiểu đoàn giành lấy một phần vùng sản xuất lương thực làm mục tiêu chiến dịch. Thời gian bắt đầu chiến dịch dự định vào hạ tuần tháng 12. Kế hoạch tác chiến này được Bộ chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam phê chuẩn sau khi thảo luận. Đồng thời Vi Quốc Thanh báo cáo Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, được đồng ý.
Chiến trường của chiến dịch trung du ở vùng Vĩnh Phú cách Hà Nội vài chục kilomét về phía tây bắc, là vùng ven tây bắc của đồng bằng sông Hồng. Trung tuần tháng 12, Vi Quốc Thanh và Mai Gia Sinh dẫn nhân viên Ban chỉ huy Đoàn cố vấn theo Bộ chỉ huy tiền tuyến quân đội Việt Nam ra tiền tuyến. Bộ chỉ huy tiền tuyến quân đội Việt Nam đóng trên núi Tam Đảo, nơi nghỉ mát nổi tiếng ở miền bắc Việt Nam. Núi này cao 1590 mét, từ trên núi có thể nhìn xuống đồng bằng sông Hồng. Phía nam núi có đường ôtô chạy thẳng lên núi, nơi đó là vùng địch chiếm. Phía bắc núi sát vùng giải phóng Việt Bắc có đường mòn dốc đứng lên thẳng đỉnh núi. Vi Quốc Thanh năm đó 37 tuổi bỏ ngựa đi bộ, bước chân chắc nịch, sau hai ba giờ leo núi là cùng nhân viên Ban chỉ huy lên tới đinh. Trên núi rải rác bảy tám ngôi nhà tây kiểu biệt thự, cửa hư hỏng, trong nhà trống trơn. Những nôi nhà này thành chỗ ở của Bộ chỉ huy tiền phương quân đội Việt Nam và Đoàn cố vấn.
Chiến dịch trung du nổ súng vào ngày 25/12, đại đoàn 308 đầu tiên tấn công cụm phòng tuyến lô cốt ngầm của địch ở giáp ranh hai tỉnh Vĩnh Phú và Bắc Ninh, cách Hà Nội hơn 30 km về phía bắc, đột kích bất ngờ, tốc chiến tốc thắng, một lúc công phá 5 cứ điểm địch, tiêu diệt khoảng 5 đại đội địch. Trung đoàn 209, sư 312 ngày 27 chạm trán với một tiểu đoàn nước ngoài của quân Pháp, qua hai giờ chiến đấu quyết liệt, cơ bản tiêu diệt tiểu đoàn này. Kết thúc thắng lợi tác chiến đợt 1.
Trận đầu thắng lợi, sở chỉ huy tiền tuyến quân đội Việt Nam tràn ngập không khí vui mừng. Năm mới đến Võ Nguyên Giáp và Hoàng Văn Thái (Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân) mang rượu sâm banh Pháp lấy được của địch đến chỗ ở của Đoàn cố vấn thăm hỏi và liên hoan. Võ Nguyên Giáp và Hoàng Văn Thái dẫn đầu mời Vi Quốc Thanh, Mai Gia Sinh và đồng chí Trung Quốc khác cùng nhảy điệu múa Sạp. Trong buổi liên hoan, khách chủ liên tục nâng cốc chúc mừng thắng lợi, chúc mừng xuân mới.
Quân đội Việt Nam sau khi nghỉ ngơi, chỉnh đốn và chuẩn bị, ngày 13/1 bắt đầu tác chiến đợt 2 chiến dịch Trung Du. Một bộ phận sư 308 và sư 312 lần lượt tấn công hai cứ điểm Bảo Trác và Ba Huyên phía bắc Kim Anh. Chủ lực của hai sư mai phục ở hương bắc và đông bắc Kim Anh, chuẩn bị đánh chặn viện. Ngày 13 và ngày đêm 14, quân đội Việt Nam liên tiếp tấn công hai cứ điểm trên, diệt hàng trăm quân địch. Quân Pháp đóng giữ Kim Anh đưa quân chi viện bị quân đội nhân dân phục kích, tiêu diệt một tiểu đoàn địch gốc Phi. Số còn lại rút lui, Quân đội Nhân dân truy kích, triển khai cuộc chiến đấu giành giật điểm cao với quân Pháp tiếp tục tăng viện ở vùng Hữu Thủ. Quân đội Nhân dân có lúc ở vào tình thế có lợi, nhưng quân địch tiếp viện từ Hà Nội đến nhanh, tổng binh lực của địch tăng lên hơn 10.000 tên. Ngày 16 và 17, quân Pháp lợi dụng địa hình trống trải, cho máy bay và đại bác ném bom bắn phá điên cuồng, quân đội Việt Nam thương vong tương đối lớn. Do thiếu lực lượng hậu bị, quân đội Việt Nam rút lui chiến đấu, kết thúc chiến dịch. Chiến dịch này tiêu diệt tất cả hơn 2000 tên địch, quân đội Việt Nam cũng trả giá gần 1000 người thương vong.
Sau chiến dịch Trung Du, Vi Quốc Thanh đề xuất với Việt Nam, kết quả của chiến dịch Trung Du cho thấy, tác chiến với quân Pháp ở vùng đồng bằng có rất nhiều điều bất lợi, không dễ đánh tiêu diệt chiến, chi bằng chuyển sang vùng Tây Bắc, mở chiến trường Tây Bắc. Ý kiến của Vi Quốc Thanh vẫn không được phía Việt Nam chấp nhận. Sau hai tháng nghỉ ngơi chỉnh đốn, quân đội Việt Nam lại mở chiến dịch Đông Bắc vào hạ tuần tháng 3. Lựa chọn chiến trường chính của chiến dịch Đông Bắc là vùng phụ cận Uông Bí trên quốc lộ 18 cách Hải Phòng hơn 30 km về phía bắc. Sau khi nghiên cứu hệ thống phòng ngự trên tuyến quốc lộ 18 của quân Pháp, Vi Quốc Thanh cảm thấy binh lực của địch ở vùng gần Uông Bí quả là tương đối mỏng yếu, cùng phía Việt Nam nghiên cứu và xác định bố trí tác chiến : sử dụng mỗi sư 2 trung đoàn của ba sư 308, 312, 316, tất cả binh lực là 7 trung đoàn, vẫn áp dụng cách đánh tấn công các cứ điểm, đánh chặn viện, lấy tiêu tiêu diệt một số tiểu đoàn địch và giải phóng một số vùng làm mục tiêu tác chiến.
Trung tuần tháng 3, Vi Quốc Thanh cùng Mai Gia Sinh và Đặng Dật Phàm dẫn nhân viên Ban chỉ huy Đoàn cố vấn theo Bộ chỉ huy tiền phương quân đội Việt Nam ra tiền tuyến. Bắt đầu từ ngày 23/3 quân đội Việt Nam tấn công kiên tiếp vào bốn cứ điểm lan tháp v.v.. dụ quân Pháp tăng viện. Nhưng quân Pháp sau khi bị động trong chiến dịch Trung Du, trở nên thận trọng, không đưa quân chi viện. Sau ba ngày quân đội Việt Nam lại đánh lấy hai cứ điểm là Bí Tắc, Trường Bạch, quân Pháp vẫn không chi viện. Quân Pháp tăng cường binh lực ở vùng chúng bị đe doạ, dựa vào công sự cố thủ, đồng thời dùng đại bác ở căn cứ lân cận sát thương quân đội Việt Nam. Đêm 29 đến ngày 30, quân đội Việt Nam tấn công hai cứ điểm ở thị trấn Mạo Khê và và mỏ than Mạo Khê đều không thuận lợi, bộ đội thương vong tương đối lớn. Đêm mồng 4 và ngày 5/4, quân đội Việt Nam liên tục tấn công các cứ điểm Tân Đáp. Bãi, Thảo Hoàng chiếm vu lại không thành công. Do thời gian kéo dài đã lâu, quân đội Việt Nam không còn lương thực không thể chiến đấu nữa nữa nên lui quân. Chiến dịch này tiêu diệt hơn 1100 tên đich, còn quân đội Việt Nam thương vong hơn 1700 người, không đạt mục đích chiến dịch.
Trên đường trở về đại đoàn Vương Thạc Tuyên cố vấn đại đoàn 308 khi gặp Vi Quốc Thanh nói : “ Chúng tôi đã đánh hai trận ở đồng bằng đều không lý tưởng, sau này không nên đánh như thế nữa ”. Vi Quốc Thanh giải thích : “ Trung ương cử chúng ta đến đây là để hết sức giúp đỡ quân đội Việt Nam. Hai bên có ý kiến khác nhau đối với kế hoạch chiến dịch sẽ thường xuyên xảy ra. Chúng ta nên nhẫn nại, không nên sốt ruột đối với vấn đề này. Chúng ta sẽ rút kinh nghiệm, tin rằng Việt Nam cũng sẽ rút kinh nghiệm trong thực tiễn chiến đấu ”.
Trước khi mùa mưa đến, quân đội Việt Nam lại mở chiến dịch Ninh Bình. Vùng Ninh Bình ở góc tây nam của châu thổ sông Hồng. Ở hướng chủ công, quân đội Việt Nam sử dụng đại đoàn 308 và 304 đóng ở tỉnh Thanh Hoá, tất cả binh lực có 6 trung đoàn. Ý đồ tác chiến là trước tiên tấn công một số cứ điểm của quân Pháp, phục kích bộ đội tăng viện của quân Pháp, nếu địch không xuất quân chi viện thì mở rộng chiếm đóng một số vùng dân cư đông đúc, thu thập nhanh lương thực. Vi Quốc Thanh lại dẫn Ban chỉ huy theo Bộ chỉ huy tiền phương quân đội Việt Nam ra tiền tuyến giúp chỉ huy chiến dịch.
Ngày 28-5, chiến dịch Ninh Bình mở màn, tác chiến đợt 1, quân đội Việt Nam luồn sâu tập kích Ninh Bình và cứ điểm địch dọc tuyến quốc lộ 1. Qua hai đêm chiến đấu, quân đội Việt Nam tấn công tỉnh lỵ Ninh Bình và hơn 10 cứ điểm ở nam, đông nam Ninh Bình, tiêu diệt hơn 600 tên đich. Trung úy Bernard de Lattre de Tassigny, con trai Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương, chỉ huy ở cứ điểm Âu Ni cũng bị quân đội Việt Nam bắn chết. Chiến dịch mở đầu tương đối thuận lợi.
Tác chiến đợt 2 do địch tăng cường lực lượng phòng thủ, Quân đội Nhân dân tuy hạ được một số cứ điểm tiêu diệt một số địch nhưng có những cứ điểm không công phá nổi, đánh chặn viện cũng không được thuận lợi, bộ đội thương vong tương đối lớn, phải rút khỏi chiến đấu. Ngày 20/6 kết thúc chiến dịch. Chiến dịch này công phá được 22 cứ điểm, tiêu diệt hơn 3.100 địch.
Ba lần tác chiến ở vùng Trung Du, Đông Bắc, Ninh Bình là ba chiến dịch quân đội Việt Nam tấn công phòng tuyến kiên cố của địch trong đó quy mô vùng ven đồng bằng Bắc Bộ. Đều là mở đầu tương đối tốt, đột kích bất ngờ, công phá một số cứ điểm, tiêu diệt một số địch. Sau đó, địch hoặc lợi dụng hoả lực của các cứ điểm chi viện cho nhau để cố thủ, hoặc lợi dụng điều kiện giao thông thuận tiện v.v. nhanh chóng điều động binh lực, phát huy ưu thế không quân đại bác, sát thương nặng Quân đội Nhân dân, làm cho Quân đội Nhân dân rơi vào bị động, đành phải kết thúc chiến dịch. Điều đó làm cho Vi Quốc Thanh tỉnh táo nhận thức rằng, quân đội Việt Nam tiến hành tác chiến quy mô tương đối lớn ở vùng đồng bằng và kẻ địch có quân mạnh phòng thủ, thì thời cơ chưa chín muồi. Xem xét từ tình thế địch ta trên toàn Bắc Bộ, cần phải giúp phía Việt Nam có sự chỉ đạo chiến lược sát thực tế hơn để giành thắng lợi lớn hơn. Vì vậy, cần phải trình bày trực tiếp tình hình với Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, xin Trung ương đưa ra quyết đoán.
Lúc này, Vi Quốc Thanh sang Việt Nam đã gần một năm. Tình hình sức khoẻ của đồng chí rất xấu, ngoài bệnh dạ dày đường ruột thỉnh thoảng lên cơn đau, lại mắc bệnh chóng mặt, đau đầu. Đó là trước lúc chiến dịch Đông Bắc, đồng chí ngày đêm suy nghĩ để đánh tốt trận này. Bỗng một hôm, tự nhiên cảm thấy trời đất quay cuồng, đầu đau như búa bổ, toàn thân chao đảo, cảm thấy còn khó chịu hơn bị thương nặng trước đấy nhiều năm, nằm trên giường tre chốc chốc lại rên. Bác sĩ quân y theo đoàn không thể chẩn đoán chính xác, không dám cho thuốc. Võ Nguyên Giáp biết tin, cử tiến sĩ y học ở Pháp, bác sĩ riêng của đồng chí đến khám, xem xong nói là bị sốt rét. Mai Gia Sinh, Đặng Dật Phàm chưa cho đồng chí uống thuốc, điện khẩn cho Lâm Quân Tài cố vấn quân y ở rất xa đến gấp để chẩn đoán bệnh. Sau khi Lâm hỏi rõ bệnh tình, chẩn đoán chính xác là lớp vỏ đại não mất cân đối vì động não quá mức gây ra. Sau khi cho thuốc an thần ngủ một đêm, bệnh tình mới khỏi. Nhưng sau đó, thỉnh thoảng nổi cơn chóng mặt, đau đầu.
Chiến dịch Ninh Bình kết thúc, mùa mưa đã đến, hai bên Việt – Pháp đều không có chiến sự lớn. Vi Quốc Thanh lại điện báo cáo cho Quân uỷ Trung ương, xin về nước để báo cáo tình hình và chữa bệnh. Trung ương trả lời đồng ý, thượng tuần tháng 7/1951, đồng chí rời nơi ở Việt Bắc trở về Bắc Kinh. Sau khi Vi Quốc Thanh về nước, quân đội Việt Nam lại mở chiến dịch Hoà Bình đập tan phản công của quân Pháp ở vùng đồng bằng. Sau khi quân Pháp bị thất bại thảm hại ở chiến dịch biên giới, Chính phủ Pháp bổ nhiệm Jean de Lattre de Tassigny, nguyên tư lệnh lục quân liên minh Tây Âu, làm Tổng chỉ huy quân viễn chinh ở Đông Dương. De Lattre sau khi đón nhận nhiệm vụ, một mặt tích cực xây đắp công sự phòng ngự bằng bê tông cốt sắt xung quanh châu thổ sông Hồng, ra sức tạo ra vùng trống không có người để cắt đứt liên hệ với vùng giải phóng ; mặt khác ra sức phát triển nguỵ quân, tập trung bộ đội tinh nhuệ xây dựng binh đoàn cơ động, để đối phó tấn công của Quân đội Nhân dân và tăng cường “càn quét” vùng du kích. Trong thời gian một năm, quân Pháp đã phá huỷ 90% căn cứ địa du kích sau lưng địch của quân đội Việt Nam, từ đó đứng chắc chân. De Lattre cho rằng, thời cơ lấy lại quyền chủ động chiến trường Bắc Bộ đã đến. Thượng trung tuần tháng 11/1951, quân Pháp huy động 6 binh đoàn cơ động, có không quân, lính thiết giáp và hạm đội trên sông phối hợp dọc sông Đà và quốc lộ số 6, chia làm hai ngả tiến vào vùng giải phóng tây nam Hà Nội, chiếm đóng vùng Hoà Bình.
Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Tổng Quân uỷ QĐNDVN quyết định mở chiến dịch Hoà Bình. Phía Việt Nam tiếp nhận kiến nghị của La Quý Ba, Đoàn trưởng Đoàn cố vấn chính trị ; đưa bộ phận chủ lực vòng sau lưng địch, tấn công quân địch, phát triển chiến tranh du kích sau lưng địch. Bố trí cụ thể là, dùng hai đại đoàn chủ lực tấn công quân địch ở Hoà Bình, đem ba đại đoàn chủ lực lần lượt đi sâu vào sau lưng địch. Ở mặt trận Hoà Bình, quân đội Việt Nam công phá mấy cứ điểm, tiêu diệt 2 tiểu đoàn và một đội thuyền trên sông. Nhưng khi tấn công cứ điểm Phiêu không được, bộ đội thương vong tương đối lớn đã chuyển sang bao vây lâu dài quân địch ở Hoà Bình. Bộ đội chủ lực vào sau lưng địch phân tán xuất kích, đạp tan nguỵ quyền, phát triển chiến tranh du kích, không những khôi phục toàn bộ căn cứ địa du kích trước đây mà còn mở ra một vùng rộng lớn mới, trực tiếp đe doạ Hà Nội, làm cho quân Pháp bị bao vây bốn phía, khó bề xoay xở, đành phải rút khỏi vùng Hoà Bình vào hạ tuần tháng 2/1952, chiến dịch Hoà Bình kết thúc thắng lợi.
Xây dựng bộ đội
Chiến dịch Biên Giới tuy giành được thắng lợi quan trọng, nhưng cũng bộc lộ Quân đội Nhân dân Việt Nam còn có không ít nhược điểm là về số lượng hay chất lượng, đều không thích ứng với yêu cầu tác chiến vận động quy mô lớn. Vi Quốc Thanh cảm thấy sâu sắc rằng, đồng thời với việc giúp quân đội Việt Nam tổ chức chỉ huy tác chiến, cần phải giúp họ tăng cường xây dựng bộ đội. Đó cũng là một trong hai nhiệm vụ quan trọng mà các đồng chí lãnh đạo Trung ương giao cho Đoàn cố vấn. Vì vậy, trong thời gian sang Việt Nam gần một năm, Vi Quốc Thanh chú trọng giúp Việt Nam nắm mấy việc sau đây :
1. Mở rộng bộ đội chủ lực, thống nhất biên chế trong trang bị. Chiến dịch Biên Giới vừa kết thúc, Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc lập tức đưa ra chỉ tiêu cho đoàn cố vấn giúp quân đội Việt Nam xây dựng quân chính quy khoảng 50.000 người. Theo đó, Vi Quốc Thanh nêu ra kiến nghị tương ứng với Võ Nguyên Giáp. Tất nhiên Võ Nguyên Giáp rất phấn khởi
Thế là Đoàn cố vấn giúp Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam vạch ra “phương án xây dựng bộ đội chủ lực” và kế hoạch biên chế trang bị, sau khi được Trung ương đảng Lao động Việt Nam phê chuẩn trên cơ sở các đạị đoàn 304, 308, 312 đã xây dựng, lại được Trung Quốc viện trợ trang bị, thành lập thêm đại đoàn bộ binh 316, 320, và đại đoàn công pháo 351 do 3 trung đoàn pháo binh và một trung đoàn công binh tổ thành. Sau đó thành lập đại đoàn bộ binh 325. Đến cuối năm 1951, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã có một lực lượng vũ trang chính quy gồm 6 đại đoàn bộ binh và 1 đại đoàn công pháo được thay đổi trang bị, biên chế thống nhất.
2. Tăng cường huấn luyện quân sự, nâng cao tố chất quân sự. Vi Quốc Thanh cho rằng, nâng cao tố chất quân sự của quân đội Việt Nam, một là phải dựa vào rèn luyện trong chiến đấu thực tế, hai là phải dựa vào huấn luyện quân sự. Vì thế, đồng chí triệu tập các cố vấn quân sự họp hội nghị bàn về công tác huấn luyện bộ đội. Đồng chí nói với các cố vấn đến dự hội nghị : “ Quân đội Nhân dân Việt Nam trước đây không đánh tiêu diệt chiến, khi đánh trận dàn hàng ngang mà tiến, pháo bắn thì phân tán tránh, như thế không được. Ở trong nước (tức ở Trung Quốc) chúng ta đánh thắng trận, dựa vào cái gì ? Dựa vào 10 nguyên tắc quân sự lớn của Mao Chủ tịch. Hạt nhân của 10 nguyên tắc quân sự lớn là cái gì ? Là đánh tiêu diệt chiến. Không đánh tiêu diệt chiến 9 nguyên tắc khác đều rỗng không. Chỉ cần đánh tốt tiêu diệt chiến thì đạt được mục đích tác chiến.
“ Các đồng chí trở về, phải lợi dụng thời gian nghỉ giữa hai chiến dịch, áp dụng biện pháp mở lớp huấn luyện luân phiên để chấn chỉnh rèn luyện bộ đội, tiến hành giáo dục quân sự cho bộ đội, làm cho mọi người đều nắm chắc tư tưởng đánh tiêu diệt chiến. Và phải dạy họ biết được các chiến thuật và động tác kỹ thuật cần thiết khi đánh tiêu diệt chiến. Làm không tốt việc này, thì chúng ta không thể nào đánh thắng trận được, cũng không thể nào ăn nói với Trung ương được ”.
Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Vi Quốc Thanh, tổ cố vấn quân sự Bộ Tổng Tham mưu và tổ cố vấn của mấy đại đoàn chủ lực giúp phía Việt Nam tổ chức nhiều lớp tập trung huấn luyện cho cán bộ, giúp bộ đội tiến hành nhiều đợt chỉnh huấn quân sự. Quân đội nhân dân lần lượt triển khai huấn luyện quân sự cho 11 trung đoàn bộ binh, 1 trung đoàn công binh, 1 trung đoàn pháo binh và 1 tiểu đoàn trinh sát. Thời gian mỗi lần chỉnh huấn khoảng một tháng. Đề cương và giáo tài huấn luyện đều do tổ cố vấn giúp biên soạn. Tổ cố vấn ở các đại đoàn giúp đào tạo cán bộ và tổ chức thực thi huấn luyện.
Trong huấn luyện quân sự, cố vấn cấp tiểu đoàn của các đơn vị đã phát huy tác dụng rất lớn. Các đồng chí ấy suốt ngày lăn lê bò toài với cán bộ chiến sĩ cơ sở, dạy họ động tác chiến thuật lợi dụng địa hình, ẩn nấp tiếp cận địch v.v... dạy họ năm kỹ thuật lớn là ném lựu đạn, nhất là tổ chức thực thi đánh bộc phá liên tục. Họ giảng đi giảng lại, làm mẫu nhiều lần, không sợ khổ, không sợ mệt, hết lòng hết sức làm tốt việc huấn luyện, đã thu được hiệu quả tương đối tốt.
3. Tăng cường xây dựng chính quy hoá, khắc phục thói quen du kích. Quân đội nhân dân ở trong môi trường chiến tranh du kích lâu dài, có thói quen du kích khá nặng. Đồng thời bộ máy của các Tổng cục quá cồng kềnh, nặng nề, chức trách của các ban ngành không rõ, tồn tại chủ nghĩa giấy tờ phiền phức. Từ cơ quan đến đơn vị chưa có điều lệ, điều lệnh chính quy và chế độ nội quy thống nhất. Nếu tình hình đó không thay đổi thì không thể thích ứng với yêu cầu của vận động chiến, công kiên chiến. Vì vậy, Vi Quốc Thanh kiến nghị với Võ Nguyên Giáp tiến hành giáo dục chính quy hoá xây dựng các chế độ nội quy đối với cơ quan, bộ đội. Phía Việt Nam tiếp nhận kiến nghị này. Vì thế, dưới sự chủ trì của Mai Gia Sinh, tổ cố vấn quân sự giúp phía Việt Nam khởi thảo “ Điều lệnh chiến đấu ”, “ Điều lệnh kỷ luật ” và “ Điều lệnh nội vụ ”. Những điều lệnh này sau khi được Tổng Quân uỷ Quân độI nhân dân Việt Nam thảo luận sửa đổi, thông qua, ban bố trong toàn quân chấp hành, làm cho việc xây dựng chính quy hoá của Quân đội Nhân dân Việt Nam tiến một bước dài. Các cố vấn còn giúp quân đội Việt Nam tổ chức lớp huấn luyện cán bộ tham mưu, bồi dưỡng cán bộ tham mưu của Bộ Tổng Tham mưu và của các đại đoàn chủ lực tăng cường xây dựng Bộ tư lệnh của Quân đội Nhân dân.
4. Bồi dưỡng cán bộ huấn luyện, đề bạt cán bộ từ cơ sở. Trong chiến dịch Biên Giới, Vi Quốc Thanh tìm hiểu thấy đông đảo chiến sĩ và một số cán bộ cơ sở bộ đội quân đội Việt Nam trong chiến đấu thể hiện rất tốt, dũng cảm mưu trí, chịu thương chịu khó, tuân thủ kỷ luật, trong đó không thiếu nhân tài ưu tú, nhưng đã lâu không được đề bạt trọng dụng. Bởi vì Quân đội Nhân dân nói chung không đề bạt cán bộ trong chiến sĩ, mà là tuyển dụng học sinh thanh niên, được trường quân sự hoặc đợi huấn luyện tập huấn ngắn ngày, rồi phân phối về bộ đội làm cán bộ trung đội, đại đội. Một số cán bộ học sinh này biểu hiện rất tốt, nhưng cũng có không ít người không biết đánh giặc, không biết chỉ huy, ra trận nhút nhát, tham sống sợ chết. Đó là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến sức chiến đấu của bộ đội. Trong cán bộ các cấp hiện có thành phần cũng khá phức tạp 4. Vi Quốc Thanh cho rằng, muốn giải quyết vấn đề nhức nhối này, cần phải bắt tay từ hai mặt :
– Một là luân phiên huấn luyện cán bộ hiện có, nâng cao tố chất quân sự và trình độ chính trị của họ. Vì vậy, tổ cố vấn chính trị do Đặng Dật Phàm chủ trì đã giúp phía Việt Nam mở lớp bồi dưỡng cán bộ phân kỳ chia đợt, luân lưu huấn luyện cán bộ đại đội trở lên. Trong lớp bồi dưỡng cán bộ, vừa học chính trị vừa học quân sự. Cố vấn đích thân giảng bài, hướng dẫn học viên độc lập suy nghĩ, dạy lẫn nhau học lẫn nhau; tự giác giải quyết tư tưởng. Lớp bồi dưỡng đợt đầu đã thu được kết quả rõ rệt, Hồ Chí Minh khen ngợi. Từ đợt thứ hai trở đi lãnh đạo đảng và quân đội Việt Nam Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp và lãnh đạo các Tổng cục cũng lần lượt đến lớp huấn luyện giảng bài, thu được hiệu quả tốt hơn. Trong mấy năm về sau liên tục tổ chức được 8 đợt bồi dưỡng cán bộ, cán bộ đại đội trở lên của bộ đội Việt Bắc về cơ bản luôn lưu huấn luyện được một lần, có tác dụng rất lớn trong việc nâng cao tố chất cán bộ, tăng cường sức chiến đấu của quân đội.
– Hai là coi trọng đề bạt cán bộ từ trong chiến sĩ, từng bước thay đổi thành phần của đội ngũ cán bộ. Công việc này được từng bước hướng dẫn và giúp đỡ phía Việt Nam tiến hành. Tổ cố vấn từ các Tổng cục đến các đại đoàn đều lợi dụng dịp tổng kết chiến dịch, hướng dẫn các chỉ huy cao cấp xuống cơ sở mở cuộc toạ đàm, nghe các chiến sĩ kể chuyện chiến đấu. Rất nhiều chiến sĩ kể chuyện rất sinh động hoạt bát, sự thật cụ thể, kinh nghiệm thiết thực. Các chỉ huy cao cấp dự toạ đàm cuối cùng nhận thức được trong chiến sĩ thực sự có nhân tài, nên đề bạt cán bộ từ trong chiến sĩ. Sau chiến dịch Biên Giới, Võ Nguyên Giáp đi cùng cố vấn pháo binh Đậu Kim Ba, xuống bộ đội mở ba cuộc chiến sĩ toạ đàm làm cho đồng chí cảm thấy rất nhiều bổ ích. Sau đó đồng chí nói với cố vấn : “ Bộ đội cấp dưới có những nhân tài cầm quân đánh giặc. Ý kiến của các đồng chí đúng, phải tìm nhân tài có kinh nghiệm tác chiến từ cấp dưới, đưa lên vị trí lãnh đạo, mới có thể nâng cao sức chiến đấu ”. Từ đó quân đội Việt Nam bắt đầu chú ý tuyển chọn đề bạt cán bộ từ trong chiến sĩ. Nhưng vấn đề, thuộc về đường lối cán bộ này mãi đến sau 1953, Đoàn cố vấn giúp quân đội Việt Nam chỉnh quân chính trị, mới được giải quyết tương đối tốt. Trong thời gian này, Đặng Dật Phàm dẫn đầu tổ cố vấn chính trị bắt tay giúp Việt Nam tăng cường chỉ đạo công tác chính trị thời chiến, tăng cường xây dựng toàn diện công tác chính trị. Mã Tây Phu dẫn đầu tổ cố vấn hậu cần lấy việc làm tốt bảo đảm hậu cần cho các chiến sĩ làm trọng tâm, dẫn dắt xây dựng toàn diện công tác hậu cần, làm cho nó từng bước thích ứng với nhu cầu của đánh vận động quy mô lớn.
Thế là, trải qua một năm công tác Quân đội nhân dân Việt Nam đều đạt được thành tích rõ rệt trên các mặt xây dựng quân sự, chính trị, hậu cần, thực hiện bước chuyển biến từ giai đoạn đánh du kích sang giai đoạn đánh vận động.
Tiến quân lên Tây Bắc
Sau khi về Bắc Kinh, đồng chí Vi Quốc Thanh báo cáo tình hình công tác của đoàn cố vấn quân sự với Lưu Thiếu Kỳ, Nhiếp Vinh Trăn, trình bày ý kiến của mình đối với chiến trường Việt Nam và phương hướng công tác chiến từ nay về sau, được Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quân uỷ Trung ương coi trọng.
Do tình hình sức khoẻ của Vi Quốc Thanh không được tốt, trong thời gian ngắn không thể trở lại Việt Nam công tác, Trung ương bèn bổ nhiệm đồng chí làm Phó tư lệnh lực lượng công an. Từ đó, Vi Quốc Thanh dời vào ngôi nhà chữ Khẩu ở Đông Bản Kiều, chấm dứt lịch sử đồng chí ở chiêu đãi sở sau khi về nước và ở nhà tập thể thời gian dài với phu nhân, Hứa Kỳ Thanh, công tác ở Ban Tổ chức Trung ương. Vi Quốc Thanh tuy làm việc ở Bộ Tư lệnh lực lượng công an, nhưng vẫn quan tâm theo dõi sự phát triển của tình hình chiến sự Việt Nam. Các bức điện quan trọng qua lại giữa Quân uỷ Trung ương và Đoàn cố vấn, Cục Cơ yêu Bộ Tổng tham mưu theo chỉ thị của Quân uỷ Trung ương đều sao chuyển cho đồng chí xem.
Thu đông năm 1951, tình hình chiến tranh Triều Tiên tương đối ổn định. Mao Trạch Đông càng quan tâm theo dõi với tình hình chiến sự Đông Dương hơn. Tầm mắt của Mao Chủ tịch không chỉ chú ý theo dõi chiến trường Bắc Bộ Việt Nam, mà còn chú ý theo dõi chiến trường Trung Bộ, Nam Bộ, chú ý theo dõi Lào và Campuchia. Không chỉ chú ý theo dõi chiều hướng của quân Pháp, mà còn quan tâm đến hoạt động của Mỹ đặt chân vào Đông Dương. Trong đầu Mao Chủ tịch dần dần hiện lên rõ nét một ý tưởng chiến lược : trước hết mở chiến trường Tây Bắc, giành lấy vùng Tây Bắc và Thượng Lào. Sau đó phát triển xuống Trung Nam Bộ, phát triển sang Trung Hạ Lào và Campuchia. Tấn công trước vào vùng binh lực địch mỏng yếu, để từng bước làm cho mình lớn mạnh lên, làm cho địch suy yếu, tạo điều kiện, cuối cùng đánh lấy đồng bằng sông Hồng, giành thắng lợi trong chiến tranh chống Pháp. Nhiệm vụ chủ yếu trước mắt là đánh lấy vùng Tây Bắc và Thượng Lào. Phải đề xuất kiến nghị này với Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Cử ai đi bây giờ ? Sau khi Mao Trạch Đông bàn với Lưu Thiếu Kỳ, quyết định giao nhiệm vụ này cho La Quý Ba hoàn thành, và giao La Quý Ba kiêm luôn quản lý công tác của Đoàn cố vấn.
Đồng chí La Quý Ba tham gia cách mạng năm 1925, trải qua cuộc đấu tranh ở Tỉnh Cương Sơn và cuộc Trường chinh hai vạn năm nghìn dặm, từng giữ chức Tư lệnh kiêm Chính uỷ quân khu Tấn Trung (miền Trung Sơn Đông), Chính uỷ Quân đoàn 7 v.v... Tháng 3/1950 sang Việt Nam làm đại diện liên lạc của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Ít lâu sau sang làm Trưởng đoàn cố vấn chính trị của Trung Quốc tại Việt Nam, phụ trách giúp công tác đảng của Việt Nam. Sau khi về nước nghỉ ngơi không lâu, đầu năm 1952 La Quý Ba lại nhận mệnh lệnh của Trung ương, sang Việt Nam. Vùng Tây Bắc Việt Nam giáp tỉnh Vân Nam – Trung Quốc có giá trị chiến lược rất quan trọng, nó là vùng xung yếu chiến lược của quân Pháp án ngữ Thượng Lào kiềm chế vùng giải phóng Việt Bắc, yểm hộ đồng bằng sông Hồng. Đánh lấy vùng Tây Bắc có thể nối liền thành một dải với vùng giải phóng Việt Bắc, hình thành hậu phương vững chắc, bắc dựa Trung Quốc, nam tiếp giáp Thượng Lào, một vùng rộng lớn, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc tạo điều kiện giành lấy đồng bằng sông Hồng và thúc đẩy toàn quốc kháng chiến thắng lợi. Còn quân Pháp ở vùng Tây Bắc chỉ có binh lực của 8 tiểu đoàn và 41 đại đội, phân tán chốt giữ 144 cứ điểm, dù là phân bố binh lực hay cấu trúc công sự đều mỏng yếu hơn nhiều so với vùng đồng bằng sông Hồng. Đó là điều kiện có lợi cho Quân đội Nhân dân tiến quân lên đánh Tây Bắc. Tuy nhiên, vùng Tây Bắc sông sâu núi cao, dân cư thưa thớt, là vùng tập trung dân tộc thiểu số, cơ sở quần chúng yếu, kinh tế nghèo nàn, giao thông bất tiện. Đó là điều kiện bất lợi. Lúc đó rất nhiều cán bộ cao cấp trong quân đội nhân dân Việt Nam chỉ nhìn thấy mặt bất lợi, mà không nhìn thấy giá trị chiến lược quan trọng của vùng này, nên không muốn lên Tây Bắc tác chiến.
Sau khi La Quý Ba đến Việt Nam, chuyển tới chủ tịch Hồ Chí Minh sự phân tích và kiến nghị của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đối với phương hướng tác chiến từ nay về sau, Hồ Chí Minh tiếp nhận kiến nghị đó. Hội nghị toàn thể lần thứ 3 Trung ương Đảng Lao động Việt Nam họp trong tháng 4, ra quyết định chuyển hướng chủ công của bộ đội chủ lực lên vùng núi Tây Bắc.
Sau đó, Đoàn cố vấn quân sự và phía Việt Nam nghiên cứu nhiều lần phương án tác chiến của chiến dịch Tây Bắc và từ tháng 4 đến tháng 7, ba lần điện thỉnh thị Quân uỷ Trung ương Trung Quốc ; Quân uỷ Trung ương đã chỉ thị tỉ mỉ vấn đề mục tiêu, chiến thuật và thời gian tác chiến tại Tây Bắc. Cuối cùng phương án tác chiến của phía Việt Nam xác định là sử dụng hai đại đoàn 308,312 và hai trung đoàn của đại đoàn 316 tất cả binh lực 8 trung đoàn, mở tấn công địch vào trung tuần tháng 10. Tác chiến đợt 1 giải phóng vùng Nghĩa Lộ và Quang Huy, tác chiến đợt 2 giải phóng vùng Sơn La và Mộc Châu.
Hạ tuần tháng 9, Hồ Chí Minh bí mật thăm Trung Quốc, sau đó nhận lời mời sang Liên Xô dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 19 Đảng Cộng sản Liên Xô. Trong thời gian ở Bắc Kinh, Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ và Bành Đức Hoài trực tiếp đưa ra với Hồ Chí Minh kiến nghị về chiến lược chung của chiến tranh chống Pháp của Việt Nam, tức trước tiên đánh lấy vùng Tây Bắc, tiến tới tiến sang Thượng Lào, để xây dựng hậu phương chiến lược rộng lớn. Có hậu phương chiến lược này thì có thể ở vị thế chủ động. Sau đó sẽ phát triển sang những vùng binh lực địch mỏng yếu Trung Hạ Lào, Campuchia và Trung Nam Bộ Việt Nam, cuối cùng đánh lấy đồng bằng sông Hồng, giành toàn thắng chiến tranh chống Pháp. Hồ Chí Minh bày tỏ hoàn toàn tán thành kiến nghị này. Các vị lãnh đạo lại thảo luận thêm vấn đề tác chiến vùng Tây Bắc và đi đến ý kiến nhất trí.
Hồ Chí Minh nêu ra với Mao Trạch Đông, chiến dịch Tây Bắc sắp bắt đầu vô cùng quan trọng, tốt nhất mời Vi Quốc Thanh sang lại Việt Nam giúp đánh tốt trận này. Mao Trạch Đông đồng ý ngay yêu cầu của Hồ Chí Minh. Ngày 30/9, Hồ Chí Minh gửi điện cho La Quý Ba nói, đồng chí đã bàn với Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, trọng điểm của chiến dịch Tây Bắc là tấn công Nghĩa Lộ. Sau khi đánh lấy Nghĩa Lộ, lập tức phát triển ra vùng xung quanh, thành lập căn cứ địa cách mạng, xây dựng đường ôtô Yên Bái đi Nghĩa Lộ. Tác chiến đợt hai không tấn công Sơn La nữa. Hồ Chí Minh còn báo cho La Quý Ba biết, Vi Quốc Thanh sẽ nhanh chóng từ Bắc Kinh đi Việt Nam.
Ngày 1/10 năm ấy là ngày quốc khánh thứ 3 của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Trên quảng trưởng Thiên An môn đêm hôm đó, hàng vạn quần chúng hân hoan vui mừng, ca hát nhảy múa. Vào lúc màn đêm buông xuống, mtc đến thành lầu Thiên An Môn nghồi chính giữa, cùng các trợ thủ chủ yếu của người xem pháo hoa. Lúc đó Vi Quốc Thanh đã được bổ nhiệm làm Phó tư lệnh lực lượng công an, cũng bước lên Thiên An Môn. Đồng chí nhìn thấy Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh đang mỉm cười ngồi bên cạnh. Từ trên thành lầu, Vi Quốc Thanh một lần nữa nhận mệnh lệnh sang Việt Nam chấp hành sứ mệnh quân sư.
Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, sau khi nhận điện của Hồ Chí Minh họp lại một lần nữa thảo luận kế hoạch chiến địa Tây Bắc. Hội nghị quyết định huỷ bỏ kế hoạch tác chiến đợt hai đã bàn định trước đấy, theo điện chỉ thị của Hồ Chí Minh tập trung tấn công Nghĩa Lộ. Võ Nguyên Giáp không dự hội nghị này đang dẫn Bộ chỉ huy tiền tuyến chiến dịch tiến lên Nghĩa Lộ. Sau khi nhận được điện báo của Trường Chinh thông báo tình hình cho đồng chí sau hội nghị, Võ Nguyên Giáp tỏ ra không đồng ý thay đổi kế hoạch tác chiến đợt 2. Trường Chinh quyết định chờ Vi Quốc Thanh sau khi đến sẽ định đoạt lại.
Vi Quốc Thanh ở Bắc Kinh được nghe chỉ thị trực tiếp của Mao Trạch Đông, Bành Đức Hoài và sau khi trao đổi với Hồ Chí Minh, ngày 16/10 đến căn cứ địa Việt Bắc. Ngay hôm đến Việt Bắc, lập tức chuyển đến lãnh đạo Việt Nam ý kiến của Hồ Chí Minh đã trao đổi với Mao Trạch Đông, Bành Đức Hoài về chiến dịch Tây Bắc Việt Nam. Ngày 18/10, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam họp thảo luận lại La Quý Ba và Vi Quốc Thanh cũng tham gia hội nghị này. Hội nghị quyết định sau đợt một chiến dịch Tây Bắc, xem tình hình lúc bấy giờ hãy quyết định có tiến hành đánh đợt 2 hay không.
Sau hội nghị, ngày 24/10, Vi Quốc Thanh ra tiền tuyến Nghĩa Lộ. Lúc này Mai Gia Sinh đã dẫn nhân viên Ban chỉ huy Đoàn cố vấn ở tiền tuyến Tây Bắc giúp phía Việt Nam tổ chức chỉ huy tác chiến đợt 1 chiến dich.
Chiến dịch Tây Bắc đã được sắp đặt và chuẩn bị thời gian dài bắt đầu nổ súng ngày 14/10/1952. Đêm hôm đó, trung đoàn 174 đại đoàn 316 tiêu diệt luôn quân địch ở cứ điểm Ca Vịnh, trung đoàn 141 đại đoàn 312 tấn công cứ điểm Sài Lương. Đại đoàn 308 sau khi bao vây sở chỉ huy phân khu của địch ở Nghĩa Lộ đêm 17 trước tiên tiêu diệt địch ở cứ điểm ngoại vi Bố Trương, tiếp đó sau khi chuẩn bị hỏa pháo, đã tấn công Nghĩa Lộ, cuộc chiến đấu quyết liệt đến hửng sáng hôm sau, tiêu diệt toàn bộ hơn 700 tên địch đóng ở Nghĩa Lộ.
Khói đạn chiến đấu ở Nghĩa Lội chưa tan, Vu Bộ Huyết, cố vấn quân sự của đại đoàn 308 lập tức dẫn cảnh vệ Lỗ Hiển Dư đi xem trận địa. Khi họ đến bên cạnh trận địa quân Pháp bên gò núi, chú Lỗ liếc mắt nhìn thấy lá cờ của quân Pháp trên trận địa vẫn bay ở đây bèn hô lên một tiếng : “ Tôi đi nhổ lá cờ đó ”, một mình chạy tới lá cờ của quân Pháp. Vu Bộ Huyết vội hét lên : “ Chú Lỗ quay về ”, nói chưa dứt lời, một tiếng nổ vang lên, một quả mìn nổ tung chàng trai Lỗ Hiển Dư người Sơn Đông, vừa tròn 20 tuổi ngã xuống, một dòng máu nóng chảy trên mảnh đất Việt Nam.
Cùng lúc với đại đoàn 308 thắng lợi ở Nghĩa Lộ, đại đoàn 312 đang tiến lên tấn công vào sâu phía bắc bờ tây sông Hồng, trên đường quét sạch cứ điểm quân Pháp, đánh tan quân địch phục kích ở Nam Mai và tiếp tục buộc địch rút khỏi điểm Tú Lệ, Gia Hội v.v.. Trung đoàn độc lập 148 từ Lào Cai tiến xuống phía nam, giải phóng Quỳnh Nhai ở bờ đông sông Đà, và hợp lại với đại đoàn 312. Các đại đoàn 308 và 316 sau khi đánh thắng trận đầu tiếp tục tiến quân tấn công Phù Yên, Vạn An v.v.. cho ngựa uống nước sông tại sông Đà.
Đến 23/10, tác chiến đợt 1 cơ bản kết thúc, tấn công tất cả 35 cứ điểm tiêu diệt gần 200 tên địch, giải phóng một vùng rộng lớn từ tây sông Hồng đến đông sông Đà. Khi Vi Quốc Thanh đến tiền tuyến Tây Bắc vào đúng lúc tác chiến đợt 1 kết thúc tác chiến đợt 2 chưa bắt đầu. Đồng chí và Võ Nguyên Giáp chia tay hơn một năm, hôm đó gặp lại tại tiền tuyến, hai người hết sức thân thiết. Vi Quốc Thanh tìm hiểu tỉ mỉ tình hình tác chiến đợt 1 và tình hình địch ta trước mắt.
Sau khi mở màn chiến dịch, quân Pháp điều động 4 trung đoàn dù từ Hà Nội đổ bộ xuống vùng Tây Bắc. Quân lính đóng tại vùng Tây Bắc, quân Pháp hiện có 7 tiểu đoàn cơ động, 4 tiểu đoàn phòng thủ, cộng với ngụy quân địa phương và những tên bị đánh tan ở đông sông Đà tháo chạy, ở vùng Sơn la, Lai Châu có tất cả khoảng 10.000 binh lực, phân bố trên một dải đất dài 300 km, rộng hơn 50 km. Phòng ngự của địch tương đối phân tán mỏng yếu. Quân đội Việt Nam tuy có thương vong, nhưng số quân không giảm mấy và do trận đầu thắng lợi tinh thần lên cao, cung cấp hậu cần cũng không có vấn đề gì lớn. Vì vậy, Vi Quốc Thanh tán thành tiếp tục tiến hành tác chiến đợt 2. Nhưng lúc này, quân Pháp ở đồng bằng sông Hồng áp dụng hành động mới. Ngày 29/10 quân Pháp điều động 3 binh đoàn cơ động, và phối hợp với cụm pháo binh do viên chỉ huy khu vực Bắc Bộ De Linarès chỉ huy, xuất phát từ tây đồng bằng sông Hồng, tiến vào vùng Phú Thọ, hòng chiếm đóng Phú Thọ và Yên Bái căn cứ hậu cần của quân đội Việt Nam, cắt đứt tuyến cung cấp lương thực của quân đội Việt Nam, để giải vây cho Tây Bắc.
Ý đồ của địch rất rõ ràng, nên xử lý tình hình này như thế nào ? Sau khi Vi Quốc Thanh và Mai Gia Sinh trao đổi với nhau kiến nghị phía Việt Nam rút ra 1 trung đoàn chủ lực trở về Phú Thọ, cùng với hai trung đoàn chủ lực bố trí sẵn ở vùng gần đó và một số bộ đội địa phương quần nhau với địch. Đồng thời, nhân lúc binh lực ở đồng bằng sông Hồng đang trống, quân đội Việt Nam tăng cường hoạt động vũ trang sau lưng địch, ra sức mở rộng vùng du kích, uy hiếp hậu phương địch. Võ Nguyên Giáp tiếp nhận kiến nghị này.
Quân Pháp tiến vào Phú Thọ bị chủ lực quân đội Việt Nam và bộ đội địa phương kiên quyết chặn đnáh, hành động chậm chạp. Sau khi đến gần Tuyên Quang được tin hậu phương của chúng không ổn địch, buộc phải rút lui. Trên đường rút lui không ngừng bị quân đội Việt Nam tấn công bắn chết, bị thương. Ngày 17/11 trung đoàn 36 đại đoàn 308 từ tiền tuyến Tây Bắc quay về phục kích trên quốc lộ số 2, một lúc tiêu diệt hơn 400 tên địch, bắn hỏng hơn 10 xe tăng và hơn 30 ôtô. Ba trung đoàn chủ lực Việt Nam truy kích quân Pháp đến phòng tuyến đoạn phía Tây đồng bằng sông Hồng mới thu quân. Hành động giải vây Tây Bắc của quân Pháp lần này đã phải trả giá bằng việc hơn 1.200 tên địch bị thương vong, rốt cuộc thất bại hoàn toàn.
Ngày 15/11, tác chiến đợt 2 bắt đầu. Sáu trung đoàn chủ lực quân đội Việt Nam vượt sông Đà, triển khai cuộc tấn công vào tỉnh Sơn La giáp Lào, công phá các cứ điểm quan trọng của quân Pháp, qua 6 ngày đêm liên tục tác chiến đã giải phóng các thành phố thị trấn quan trọng Mộc Châu, Yên Châu, Thuận Châu, Tuần Giáo v.v.. tiêu diệt rất nhiều quân địch.
Khi tấn công Thuận Châu, quân đội Việt Nam được biết từ cửa miệng tù binh, binh lực địch ở Điện Biên Phủ trống vắng, chỉ có 200 lính người Thái canh giữ dưới sự chỉ huy của một trung úy quân Pháp, liền đưa một tiểu đoàn bộ binh, qua hai ngày hai đêm băng rừng lội suối ngày 30/11 nhẹ nhàng lấy được Điện Biên Phủ, bọn địch canh giữ chạy tán loạn vào rừng. Ngày 22/11 quân Pháp bỏ tỉnh lỵ Sơn La. Khoảng 8 tiểu đoàn binh lực địch tháo chạy khỏi các nơi ở Sơn la tập trung về Nà Sản cách Sơn La 20km về phía nam, tranh thủ xây dựng công sự hòng cố thủ. Sau khi Vi Quốc Thanh và Võ Nguyên Giáp bàn tính quyết định tập trung 6 trung đoàn chủ lực, bao vây và tấn công Nà Sản, tiêu diệt quân địch cố thủ, giành toàn thắng của chiến dịch.
Nhưng lúc này tình hình ở Nà Sản có thay đổi. Quân địch giữ Nà Sản được không quân Pháp ra sức chi viện; trước tiên thả tấm thép làm đường băng làm sân bay đơn giản rất nhanh, tiếp đó máy bay vận tải chở xe tăng, pháo và vật liệu xây dựng công sự, binh lính xây dựng thành tập đoàn cứ điểm, hơn 20 cứ điểm. Sau khi chuẩn bị ngắn ngày, đêm 30/11 quân đội Việt Nam tấn công 4 cứ điểm bên ngoài Nà Sản. Do địch phát huy ưu thế hỏa lực, chi viện cho nhau, có cứ điểm chưa công phá được có cứ điểm sau khi công phá bị địch lấy lại, bộ đội ta bị thương vong nặng. Lúc này quân Pháp lại cho 2 tiểu đoàn nhảy dù xuống Nà Sản, tổng binh lực lên đến hơn 7000 người.
Sau khi phân tích tình hình tác chiến ở ngoại vi Nà Sản, Vi Quốc Thanh cho rằng cứ điểm của địch thành cụm, hỏa lực chi viện cho nhau, công sự ngày càng tăng cường binh lực ngày càng tăng thêm quân đội Việt Nam khó gặm nổi cục xương cứng này. Tiếp tục đánh, bộ đội thương vong nhiều hơn, tiêu hao lớn hơn, lúc đó nếu địch phản kích, quân đội Việt Nam sẽ bị thiệt hại lớn. Vì vậy, đồng chí kiến nghị với Võ Nguyên Giáp thu quân từ đây, kết thúc chiến dịch. Phía Việt Nam chấp nhận kiến nghị này. Chiến dịch Tây Bắc kết thúc ngày 10/12.
Trong chiến dịch Tây Bắc trải qua gần hai tháng, quân đội Việt Nam giành được thắng lợi to lớn, tiêu diệt tất cả 13.800 tên địch giải phóng vùng đất rộng 28.500 km2 và 25.000 dân. Toàn bộ vùng Tây Bắc, trừ ngoại vi Nà Sản của tỉnh Sơn La và nửa phần phía bắc của tỉnh Lai Châu, đều do quân đội nhân dân kiểm soát. Vùng giải phóng nối liền thành một dải với căn cứ địa Việt Bắc, hình thành hậu phương chiến lược rộng lớn, thay đổi hơn nửa tình thế chiến lược địch ta của chiến trường Bắc Bộ.
Ngày 17/12, khi gửi điện cho Quân uỷ Trung ương Trung Quốc trình bày tình hình tác chiến Tây Bắc, Vi Quốc Thanh có nói : “ Tác chiến từ Nghĩa Lộ đến Yên Châu, đều căn cứ vào chỉ thị của Mao, Bành, tập trung binh lực hỏa lực ưu thế, chủ động tấn công tác chiến; đồng thời binh lực địch tương đối phân tán, các cứ điểm không thể tiếp ứng cho nhau, cho nên dễ bị ta công phá từng cái. Ta lợi dụng tấn công ban đêm, tránh được đe dọa của không quân, pháo binh, giải quyết chiến đấu nhanh chóng, lại có thể lợi dụng địa hình có lợi, di chuyển trận địa nghỉ ngơi tiêu hao đạn dược chưa được bổ sung, cho nên tuy thường bị đói hành động tác chiến dồn dập, nhưng thắng lợi liên tiếp, tinh thần rất cao... đến giai đoạn bao vây Nà Sản, cán bộ bắt đầu có tâm lý cho là gặp may, đánh giá chưa đầy đủ tình hình địch ở Nà Sản, khinh địch, cho nên khi đánh bốn cứ điểm bên ngoài Nà Sản thương vong tương đối lớn. Do hỏa lực của không quân, pháo binh địch được phát huy cao độ, tâm tư bộ đội chuyển biến nhanh, tư tưởng bi quan dao động nhanh chóng lan tràn, nảy sinh tâm lý oán trách. Thái độ của cán bộ đại đoàn, trung đoàn im lặng (vì đã không bảo đảm lấy được Sơn La, trước mặt Hồ Chí Minh), không dám báo cáo lên trên tình hình chân thực của bộ đội, Bộ Tổng Tham mưu không thể nắm chính xác tình hình bộ đội. Kết quả cán bộ đại đoàn, trung đoàn muốn cố vấn đề đạt ý kiến lên trên, Bộ tổng thì yêu cầu đại đoàn, trung đoàn bày tỏ thái độ có thể thắng hay bại, hình thành tình trạng trên dưới không chịu trách nhiệm đối với chiến tranh. Căn cứ theo tình hình lúc bấy giờ, chúng tôi không thể không nhanh chóng bày tỏ thái độ ”.
Vào lúc kết thúc chiến dịch Tây Bắc, Hồ Chí Minh từ Liên Xô trở về Bắc Kinh. Trong thời gian ở Moscow, Stalin tiếp kiến Hồ Chí Minh, hai bên trao đổi một số vấn đề trọng đại liên quan đến cách mạng Việt Nam 5. Ở Bắc Kinh, Hồ Chí Minh nhận được báo cáo tình hình quân sự của chiến dịch Tây Bắc. Người cảm thấy quân đội Việt Nam ngừng tác chiến hơi sớm, còn có thể đánh tiếp, tốt nhất nhân đà khí thế đang hăng đánh lấy Nà Sản. Vì thế ngày 14/12, Người điện cho Võ Nguyên Giáp và Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Bức điện viết : “ Bọn địch ở Nà Sản cô lập, tấn công Nà Sản có ý nghĩa rất lớn đối với củng cố Tây Bắc, phát triển quan hệ với Lào, nên ra sức tiêu diệt quân địch ở đây, đừng để cho chúng chạy thoát. Nếu không thể tiêu diệt một lần thì chỉ vài lần tiêu diệt chúng. Và đề ra, trên nguyên tắc, không ảnh hưởng đến đánh Nà Sản có thể đồng thời hoặc sớm hơn quét sạch bọn địch ở vùng Lai Châu ”.
Bức điện đó của Hồ Chí Minh Vi Quốc Thanh được xem trước, vì điện văn qua lại giữa Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đều do điện đài của Đoàn cố vấn sau khi nhận và dịch mới chuyển cho phía Việt Nam. Sau khi xem điện Võ Nguyên Giáp lại bàn với Vi Quốc Thanh, ý kiến của hai người nhất trí. Trước mắt không thể tiếp tục đánh Nà Sản. Ngày 17/12 Vi Quốc Thanh điện cho Quân uỷ Trung ương : “ Đã biết bức điện ngày 14 của Hồ chủ tịch, chấp hành điện này có khó khăn. Quân địch cố thủ Nà Sản hiện có 10 tiểu đoàn bộ binh và 1 tiểu đoạn lựu pháp, còn ta trong 5 trung đoàn có 3 trung đoàn thương vong tương đối lớn, không chỉnh đốn thì không thể đánh tiếp. Vì vậy đề nghị thu quân thắng lợi, tạm thời bao vây quân địch ở Nà Sản, đợi tình hình có lợi sẽ tấn công lấy Nà Sản. Phải mất hai tháng làm tốt việc chấn chỉnh bổ sung bộ đội tranh thủ trước mùa mưa mở lại chiến dịch ở Tây Bắc. Ở phía bắc quét sạch bọn địch ở ngoại vi Lai Châu, cô lập Lai Châu. Ở phía nam tấn công lấy Sầm Nứa của Lào, nối liền với Điện Biên Phủ, tạo điều kiện tiếp tục mở ra chiến trường trung Lào ”.
Ngày 19/12, Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc điện trả lời Vi Quốc Thanh, nêu rõ : “ Bọn địch ở Nà Sản gặp rất nhiều khó khăn, nếu quân đội nhân dân có thể tấn công thì rất có lợi cho việc củng cố Tây Bắc, giải phóng Lào. Nhưng tấn công Nà Sản không phải làm ngay lập tức, cần phải chuẩn bị ít nhất ba tháng, khi có đủ năng lực công kiên và nắm chắc thắng lợi mới tấn công tiêu diệt ”. Bức điện này vừa nêu lên tầm quan trọng của việc đánh lấy Nà Sản, ủng hộ ý kiến của Hồ Chí Minh vừa nêu ra phương châm cần phải chuẩn bị đầy đủ, sau khi có đủ điều kiện hãy đánh Nà Sản, cũng giải tỏa được nỗi lo của Vi Quốc Thanh.
Đầu tháng 1/1953, Vi Quốc Thanh lại về Bắc Kinh báo cáo công tác và xin chỉ thị vấn đề tác chiến.
Tiến đánh Sầm Nưa
Ngày 3/2/1953, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam điện cho Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc : “ Vốn định đánh Nà Sản trước mùa mưa, vì chuẩn bị chưa kịp, quyết định đánh sau mùa mưa. Tranh thủ tổ chức chiến dịch Sầm Nứa trong tháng 4, đánh lấy vùng thượng Lào ”. Ngày 9, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc điện trả lời tán thành.
Ngày 2/3 Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc gửi điện cho La Quý Ba và Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, sau khi nêu lên ý kiến cần làm tốt hơn công tác chuẩn bị chiến dịch Thượng Lào, nói : “ Đồng chí Vi Quốc Thanh sắp lên đường sang Việt Nam giúp các đồng chí tổ chức chiến dịch Sầm Nứa, ngày 14/3 có thể đến Bằng Tường ”.
Ngày 5/3, Vi Quốc Thanh vâng lệnh từ Bắc Kinh lên đường sang Việt Nam. Cùng đi còn có Hồ Chí Minh, đồng chí muốn về nước sau khi chữa bệnh nghỉ ngơi ở Bắc Kinh. Hai người cùng ngồi trong một toa xe công vụ của đoàn tàu từ Bắc Kinh đi Nam Ninh. Hồ Chí Minh rất nhiệt tình hiền hoà với mọi người, coi Vi Quốc Thanh như người bạn tri ân chuyện gì cũng có thể nói với nhau. Trên đường, Hồ Chí Minh nói đến tình hình hiện tại, nói đến chặng đường đã qua, cũng nói đến tình hình đồng chí gặp Stalin ở Moscow. Hồ Chí Minh nói với Vi Quốc Thanh : “ Năm nay chúng tôi sẽ triển khai cải cách ruộng đất quy mô lớn ở căn cứ địa Việt Bắc, bởi vì “ người ” đã nói rồi ”. Khi nói tới chữ đồng chí cố ý kéo dài âm điệu đồng thời đặt hai ngón tay lên miệng thành hình chữ “ bát ”. Vi Quốc Thanh hiểu ngay đó là Stalin.
Hồ Chí Minh nói : Khi gặp nhau ở Moscow ông ấy hỏi tôi : “ Đồng chí muốn làm lãnh tụ của công nhân nông dân, hay là muốn làm lãnh tụ của địa chủ, nhà tư bản ? ” tôi nói : “ Tất nhiên tôi làm lãnh tụ của công nhân nông dân ”. Ông ấy nói : “ Đồng chí muốn làm lãnh tụ của công nhân nông dân thì phải mang lại ruộng đất cho họ, mang lại lợi ích thực tế cho họ ”. Ông ấy còn lấy ví dụ nói với tôi : “ Ví như một chiếc đòn gánh, một đầu là công nhân, nông dân, một đầu là địa chủ nhà tư bản, đồng chí phải đứng ở một đầu, không thể đứng ở giữa, đứng ở giữa không thể được ”. Hồ Chí Minh tiếp tục nói : “ Thực ra, được sự giúp đỡ của La Quý Ba, chúng tôi đã làm rất tốt nhiều việc về mặt phát động quần chúng, đã làm giảm tô giảm tức, chuẩn bị tiến hành cải cách ruộng đất. Bây giờ ông ấy đã nói ra, sau khi tôi về nước, phải thống nhất tư tưởng trong đảng chúng tôi hơn nữa, làm cải cách ruộng đất quy mô lớn ”.
Vi Quốc Thanh nói : “ Thế thì tốt ! thời kỳ chiến tranh giải phóng ở Trung Quốc, nhờ có cải cách ruộng đất, nông dân hăng hái tòng quân, chi viện tiền tuyến, cho nên giành được thắng lợi toàn quốc rất nhanh. Việt Nam làm cải cách ruộng đất, quần chúng được phát động hơn nữa, nhất định sẽ thúc đẩy tiến hành kháng chiến toàn quốc thắng lợi ”.
Vi Quốc Thanh nói tiếp : “ Địa phương làm cải cách ruộng đất, sẽ phản ánh vào trong bộ đội. Ở bộ đội cũng cần phải tiến hành giáo dục và chỉnh đốn ”. Hồ Chí Minh nói : “ Đồng chí nói đúng, về mặt này còn phải nhờ các cố vấn giúp đỡ cụ thể ” 6.
Sau khi đoàn tàu đến Nam Ninh, Hồ Chí Minh và Vi Quốc Thanh được biết tin Stalin từ trần. Hồ Chí Minh vội về Việt Nam. Trước khi lên đường, Vi Quốc Thanh đã xin Quân uỷ nghỉ phép, dẫn bác sĩ và bảo vệ đi huyện Đông Lan tây bắc Quảng Tây, trở về quê hương 26 năm xa cách, để thăm em trai và bà con họ hàng của mình. Ở nhà hai hôm lập tức quay lại Nam Ninh và trung tuần tháng 3 đến chỗ ở đoàn cố vấn ở Việt Bắc.
Thượng Lào, tức miền bắc nước Lào, là hậu phương chiến lược quan trọng của quân Pháp ở Đông Dương. Sau khi bị thất bại nặng nề ở Tây Bắc Việt Nam, quân Pháp đã tăng cường phòng ngự ở Thượng Lào, xây dựng Sầm Nứa thành cứ điểm có công sự phòng ngự khá mạnh, có 3 tiểu đoàn và 1 đại đội pháo binh đóng giữ, hơn 1500 người. Ở Xiêng Khoảng và Mường Sủi phía nam Sầm Nứa nương tựa vào nhau, cũng có binh lực của 3 tiểu đoàn phòng thủ. Nói chung, phòng ngự của địch tương đối yếu. Sau khi về đến nơi ở của đoàn cố vấn, Vi Quốc Thanh lập tức bàn bạc với Võ Nguyên Giáp về vấn đề liên quan đến chiến dịch Thượng Lào và đi đến nhận thức chung : mục đích mở chiến dịch Thượng Lào là tiêu diệt sinh lực địch ở Thượng Lào, đánh lấy một số vùng ở Thượng Lào, mở căn cứ địa cho chính phủ kháng chiến Lào, củng cố và phát triển thành quả của chiến dịch Tây Bắc. Kế hoạch của chiến dịch là : các đại đoàn 308, 312, 316 tiến vào Lào theo quốc lộ 6, bôn tập từ xa đến Sầm Nứa ; đại đoàn 304 từ Nghệ An tiến về phía tây theo quốc lộ 7, tấn công Xiêng Khoảng và chặn đánh quân Pháp nguỵ từ Sầm Nứa có thể chạy về phía nam, năm đại đội Pháp từ Điện Biên Phủ phát triển sang vùng sông Nậm Hu để phối hợp.
Ngày 23/3, Vi Quốc Thanh và Mai Gia Sinh dẫn nhân viên Ban chỉ huy đoàn cố vấn theo Bộ chỉ huy tiền phương QĐNDVN ra tiền tuyến Thượng Lào. Khi sắp đến biên giới Lào thì gặp Hoàng thân Suphanuvong, lãnh tụ kháng chiến Lào, cùng trên đường đi vào lãnh thổ Lào.
Hoàng thân Suphanuvong, thành viên của vương thất Lào đã sớm tiếp thụ chủ nghĩa Marx, tham gia phong trào độc lập Lào. Năm 1946 sau khi quân Pháp khôi phục lại binh lực, ông tổ chức đấu tranh vũ trang chống Pháp. Mùa hè năm 1950 đứng ra nhận chức Thủ tướng nhiệm kỳ đầu tiên của Chính phủ kháng chiền Lào. Tháng 2/1951, lãnh đạo đảng Lao động Việt Nam và Hoàng thân Suphanuvong và Chêmxamây 7 người phụ trách mặt trận giái phóng Cao Miên họp hội nghị liên tịch, quyết định thành lập Liên minh kháng chiến ba nước, Việt Nam, Lào, Campuchia, cùng nhau chống lại sự cai trị thực dân của Pháp ở Đông Dương. Đến năm 1952 được sự giúp đỡ của Việt Nam, lực lưỡng vũ trang của Hoàng thân Suphanuvong lãnh đạo phát triển được 1500 người.
Vi Quốc Thanh sớm biết tiếng Hoàng thân Suphanuvong, cũng đại thể biết rõ sự từng trải phi thường của ông. Vị Hoàng thân này người tầm thước, khuôn mặt vuôn tròn, nước da ngăm ngăm, khiêm tốn hoà nhã. Trong mấy ngày tiếp xúc với Suphanuvong Vi Quốc Thanh hiểu được tình hình đấu tranh và phong tục tập quán dân tình của Lào. Để bày tỏ lòng kính trọng và tình bạn đối với Vi Quốc Thanh, Hoàng thân Suphanuvong tặng đồng chí một thanh đoản kiếm có vỏ bọc tinh xảo và chiếc túi vải thêu hoa văn sặc sỡ. Bộ đội chủ lực quân đội Việt Nam bắt đầu ra quân vào hạ tuần tháng 3. Ngày 10/4, đại đoàn 308 và 312 vượt qua sông Mã biên giới Lào, cử một tiểu đoàn trang bị nhẹ tiến lên suốt ngày đêm, chuẩn bị đánh chiếm sân bay Sầm Nứa bằng động tác bất ngờ để cắt đứt đường tháo chạy bằng máy bay của địch. Không ngờ, đêm 11, một trung đội trưởng trinh sát của bộ đội địa phương quân đội Việt Nam đầu hàng địch, tiết lộ ý đồ của quân đội nhân dân. Quân Pháp nguỵ rạng sáng ngày 13 bỏ chạy về phía nam. Thế là cuộc tập kích biến thành cuộc truy kích.
17g ngày hôm đó, bộ đội đi đầu của đại đoàn 312 đến thị xã Sầm Nứa. Rút bài học trong chiến dịch Tây Bắc Bộ đội vì mang nặng đường xa nên hành động truy kích chậm chạp để cho địch chạy thoát, một tiểu đoàn bộ đội truy kích vứt bỏ ruột tượng gạo, trang bị nhẹ, tiến nhanh, hai tiểu đoàn khác thồ lương thực đuổi theo. Ngày 15, đuổi kịp quân địch ở Na Nong cách Sầm Nứa 30 km về phía nam, tiêu diệt 1 tiểu đoàn địch. Ngày 18, số địch sống sót chạy đến gần quốc lộ 7, bị bộ đội đại đoàn 304 từ Nghệ An tiến lên phía tây chặn đánh, tiêu diệt phần lớn. Trận này Quân đội Nhân dân chưa tốn một phát đạn pháo, đã bắn chết bắt làm tù binh gần 1000 tên địch. Hơn 200 tên chạy trốn vào rừng, hơn 220 tên chạy về tiểu đoàn địch ở cánh đồng Chum.
Ngày 18/4, các đại đoàn 308 và 312 tiến gần tới Luông PraBang, gặp vương thất Lào ở; buộc quân Pháp gấp rút đưa ba tiểu đoàn nhảy dù xuống Luông PraBang, tăng cường phòng ngự ở đây. Đồng thời, đại đoàn 316 tiến đến gần bắc Xiêng Khoảng, đại đoàn 304 cũng áp sát Xiêng Khoảng theo quốc lộ 7. Quân Pháp ở Xiêng Khoảng bỏ chạy về cánh đồng Chum, làm cho binh lực ở đây tăng lên đến 5 tiểu đoàn. Ngày 26, quân đội Việt Nam truy đuổi đến cánh đồng Chum, bao vây doanh trại quân Pháp. Quân đội Nhân dân Việt Nam từ Điện Biên Phủ tiến xuống phía nam tiến triển cũng rất nhanh, từ 16 đến 23 tháng 4, liên tiếp đánh các nơi Hội Hòn, Toả Thi, Mường U và đều chiến thắng, tiêu diệt một phần quân địch, kiểm soát một số vùng của tỉnh Phong Xalì.
Xét thấy mùa mưa sắp đến, đường cung cấp hậu cần cho bộ đội kéo quá dài, quân Pháp thực thi tập đoàn cứ điểm cố thủ, quân đội Việt Nam khó nắm bắt cơ hội tác chiến ở Thượng Lào, sau khi Vi Quốc Thanh và Võ Nguyên Giáp bàn bạc quyết định kết thúc chiến dịch Thượng Lào ngày 3/5. Chiến dịch này tổng cộng tiêu diệt binh lực của 3 tiểu đoàn và 11 đại đội (tương ứng 1/5 tổng binh lực quân Pháp và ngụy ở Lào) giải phóng toàn tỉnh Sầm Nứa và một số vùng của tỉnh Xiêng Khoảng, Phong Xalì có tất cả hơn 300.000 dân (tương đương 1/5 diện tích của cả nước Lào), làm cho vùng này nối liền thành một dải với Tây Bắc, căn cứ địa Việt Bắc của Việt Nam. Từ đó, Sầm Nứa trở thành trụ sở của Chỉnh phủ kháng chiến Lào, cuộc kháng chiến của Lào xuất hiện cục diện mới.
Sau khi kết thúc chiến dịch Thượng Lào, Võ Nguyên Giáp và Hoàng thân Suphanuvong mời Vi Quốc Thanh nói chuyện với cán bộ Việt Nam, Lào. Lúc này, Vi Quốc Thanh hiểu được trong số cán bộ Việt Nam cử sang công tác giúp Lào, có hiện tượng coi thường cán bộ Lào và bao biện làm thầy, còn cán bộ Lào có tư tưởng ỷ lại và tâm lý tự ti, ảnh hưởng đến triển khai công tác, Vi Quốc Thanh cho rằng, nhân cơ hội này làm công tác tư tưởng là cần thiết, nên đồng ý.
Hội nghị cán bộ Việt Nam, Lào lần này họp trong rừng gần Sầm Nứa. Cán bộ Lào đến họp nói chung đều biết tiếng Việt. Vi Quốc Thanh nói đến đâu, dịch ra tiếng Việt đến đấy. Chủ đề phát biểu của Vi Quốc Thanh là hợp tác Việt – Lào, đoàn kết chống ngoại xâm. Trong phát biểu, đồng chí điểm từng vấn đề tồn tại tương đối hàm súc, nhưng không phê bình trực diện. Trong phát biểu nói đến vấn đề cán bộ Việt Nam, lại nói đến vấn đề cán bộ Lào. Lời lẽ rất cân nhắc phát biểu tương đối biện chứng, toàn diện, được cán bộ dự hội nghị hoan nghênh và đánh giá tốt. Sau hội nghị, cố vấn chính trị Lý Văn Nhất nói : “ Phát biểu lần này của Vi Quốc Thanh thật không dễ dàng ! Nói rất hay, sẽ giúp ích cho công tác sau này ”.
Sự thực về thời kỳ sau chiến dịch Tây Bắc quân đội Việt Nam tấn công tập đoàn cứ điểm Nà Sản chưa đánh đã bị thương vong nặng làm cho Vi Quốc Thanh nhận thức sắc bén rằng, từ nay về sau, quân Pháp có thể lợi dụng ưu thế không quân của chúng, dùng phương thức tập đoàn cứ điểm để ngăn chặn tấn công của Quân đội Nhân dân mà Quân đội Nhân dân thì chưa có cách đối phó. Nếu không giải quyết vấn đề này thì chủ lực quân đội Việt Nam sẽ rơi vào tình trạng không có đất dụng võ trận lớn không đánh được, trận nhỏ không có để đánh. Vì vậy cần phải giúp quân đội Việt Nam nghiên cứu giải quyết vấn đề này. Vi Quốc Thanh cho rằng, trên vấn đề đối phó với tập đoàn cứ điểm của quân Pháp, quân đội Việt Nam có hai nhược điểm rõ rệt : một là hoả lực pháo binh yếu, thiếu đại bác và cao xạ pháo, không thể kiềm chế hoả pháo của địch và đối phó máy bay địch ; hai là tố chất chiến thuật công kiên kém, không biết đánh công kiên chiến quy mô tương đối lớn. Vì vậy sau khi kết thúc chiến dịch thượng Lào đồng chí một mặt kiến nghị Quân uỷ Trung ương, đẩy nhanh trang bị và huấn luyện đối với bộ đội pháo và cao xạ pháo quân đội Việt Nam, chuẩn bị dùng cho tác chiến mùa đông, mặt khác giúp phía Việt Nam nắm chắc huấn luyện chiến thuật công kiên cho bộ đội nâng cao năng lực tác chiến công kiên.
Hạ tuần tháng 5/1953, Vi Quốc Thanh liên tục triệu tập cố vấn quân sự nghiên cứu vấn đề bố trí huấn luyện quân sự. Đồng chí nêu rõ : “ Huấn luyện chiến thuật công kiên của Quân đội Nhân dân phải bắt đầu từ biên soạn giáo trình, thông qua biên soạn giáo trình tăng cường nhận thức thống nhất tư tưởng với đặc điểm phòng ngự của địch, sau đó dùng tài liệu thống nhất, triển khai huấn luyện quân sự cho cán bộ trước, chiến sĩ sau, đặt cơ sở chiến thuật để giành thắng lợi cho chiến dịch Đông Xuân tới ”. Đồng chí nêu rõ : Để biên soạn tốt giáo trình, cần thành lập Ban biên tập giáo trình gồm cán bộ lãnh đạo Việt Nam và cố vấn quân sự, phụ trách công tác biên soạn ; biên tập giáo trình và huấn luyện quân sự, cần tốn nhiều thời gian, phải làm chuyển biến tư tưởng của bộ đội không muốn đào công sự, học cách xây dựng công sự và xây dựng trận địa tấn công, học biết xây dựng đường sóc và cất giữ lương thực, đạn dược, học biết dùng hoả pháo khống chế sân bay địch và dập tắt hoả pháo địch.
Những ý kiến này sau khi nêu ra với phía Việt Nam, được phía Việt Nam coi trọng. Đầu tháng 6, Ban biên tập giáo trình được thành lập gồm người phụ trách cơ quan Bộ tổng tham mưu quân đội nhân dân, cán bộ lãnh đạo các đại đoàn và cố vấn quân sự. Tại hội nghị thành lập, Võ Nguyên Giáp và Vi Quốc Thanh đều dự và phát biểu ý kiến. Võ Nguyên Giáp phát biểu nhấn mạnh biên tập giáo trình phải lấy học tập kinh nghiệm Trung Quốc là chính. Vi Quốc Thanh phát biểu nhấn mạnh biên soạn giáo trình chiến thuật công kiên nên bao gồm động tác cá nhân và chiến thuật công kiên hợp đồng từ tiểu đội, trung đội, đại đội, tiểu đoàn đến trung đoàn, phải lấy tập đoàn cứ điểm Nà Sản làm đối tượng chính. Quá trình biên soạn giáo trình tức là quá trình thống nhất tư tưởng chiến thuật.
Sau khi bố trí xong công tác huấn luyện quân sự, Vi Quốc Thanh lại về Bắc Kinh báo cáo công tác. Theo bố trí thống nhất của Tổng quân uỷ quân đội Việt Nam, dưới sự giúp đỡ của cố vấn quân sự, bộ đội chủ lực quân đội Việt Nam tiến hành chỉnh huấn quân sự, chính trị quy mô lớn vào hè thu năm 1953. Trước tiên triển khai chỉnh quân chính trị gần giống phong trào chỉnh quân kiểu mới của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, tiến hành giáo dục tố khổ, nâng cao giác ngộ giai cấp, tăng cường ý chí chiến đấu để phối hợp với phong trào cải cách ruộng đất đang tiến hành ở căn cứ địa Việt Bắc. Sau đó, trên cơ sở biên soạn xong giáo trình chiến thuật công kiên triển khai chỉnh huấn quân sự. Khi kết thúc chỉnh huấn quân sự, tổ chức diễn tập quân sự. Thông qua chỉnh huấn trình độ chiến thuật công kiên của bộ đội được nâng cao rõ rệt, đặt cơ sở cho chiến dịch Điện Biên Phủ tiến hành sau đó.
Quyết chiến Điện Biên Phủ (thượng)
Sau thất bại nặng nề liên tiếp của quân Pháp ở Tây Bắc, Thượng Lào, Tổng chi huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương lại thay ngựa. Raoul Salan kế nhiệm Jean de Lattre de Tassigny bị cách chức, thay thế ông ta là tướng Henri Navarre nguyên Tham mưu trưởng bộ đội Đức đóng ở Trung Âu. Hy vọng của chính phủ Pháp kết thúc một cách “ thể diện ” chiến tranh Đông Dương gửi gắm vào Navarre.
Sau khi lên nhậm chức, Navarre đã phân tích nghiên cứu tình thế chiến trường Đông Dương, nhanh chóng vạch ra một kế hoạch quân sự hòng thoát khỏi bị động, giành lại chủ động, làm cho chiến tranh xâm lược chuyển bại thành thắng trong vài ba năm. Những điểm chủ yếu của kế hoạch này là : 1. Gấp rút tổ chức và huấn luyện nguỵ quân Bảo Đại (Hoàng đế cuối cùng của triều Nguyễn, Việt Nam) chốt giữ cứ điểm để quân Pháp tập trung tổ chức thành tập đoàn chủ lực làm nhiệm vụ tác chiến cơ động ; 2. Thực hành phương châm quân sự nam trước bắc sau, mưu đồ chiếm đóng toàn bộ vùng giải phóng và vùng du kích Nam Bộ, Nam Trung Bộ, Việt Nam. Trước mùa xuân 1954 nhằm ổn định hậu phương chiến lược của quân Pháp. Mùa đông 1954 đến mùa xuân 1955, trên cơ sở tổ chức xong tập đoàn chủ lực, tập trung toàn bộ binh lực quyết chiến với chủ lực Việt Nam ở Bắc Bộ, giành thắng lợi có tính quyết định.
Để thực hiện kế hoạch Navarre, nước Pháp điều động từ bản quốc, Bắc Phi và Triều Tiên 12 tiểu đoàn bộ binh, pháo binh tăng viện cho quân viễn chinh xâm lược Việt Nam. Chính quyền bù nhìn Bảo Đại tiến hành tổng động viên, ra sức bắt lính bổ sung cho quân nguỵ, từ tháng 5/1953 đến tháng 3/1954, tổng cộng được 107 tiểu đoàn quân nguỵ. Đến mùa thu 1953 quân Pháp tập trung tổng cộng 84 tiểu đoàn binh lực cơ động tại chiến trường Đông Dương. Tháng 8/1953, quân Pháp điều chỉnh bố trí từ bỏ Nà Sản, không vận toàn bộ binh lực đóng ở Nà Sản đến đồng bằng Bắc Bộ, tăng cường lực lượng cơ động. Trong thời gian này quân Pháp ráo riết càn quét vùng địch hậu Nam Bộ, Trung Bộ và Bắc Bộ Việt Nam, hòng tiêu diệt chủ lực quân đội Việt Nam và du kích vũ trang.
Kế hoạch Navarre được đế quốc Mỹ tán thưởng và ủng hộ. Sau đình chiến ở Triều Tiên để thực hiện chiến lược toàn cầu của mình, Mỹ ráo riết can thiệp vào Đông Dương, quyết định tăng 50% viện trợ quân sự cho Pháp, chi 400 triệu USD để xây dựng nguỵ quân Việt Nam và cung cấp số lớn trang bị quân sự, để bổ sung cho quân Pháp và vũ trang quân nguỵ.
Pháp – Mỹ ra sức cấu kết, tích cực thúc đẩy hoạt động của kế hoạch Navarre, làm cho phía Việt Nam cảnh giác và coi trọng. Sau khi quân Pháp rút khỏi Nà Sản vào trung tuần tháng 8, cần phải thay đổi kế hoạch tác chiến mùa đông đã định trước đây mà mục tiêu chính là tấn công Nà Sản. Nhận định, tình hình mới như thế nào, chọn hướng tấn công quan trọng của tác chiến mùa đông ở đâu ? Trở thành vấn đề to lớn cần được nghiên cứu giải quyết. Ngày 13/8, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam thông báo cho Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc tình hình mới quân Pháp rút khỏi Nà Sản và đề nghị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc “giúp đề xuất ý kiến” đối với vấn đề nhận thức tình hình và phương hướng tác chiến từ nay về sau.
Lúc này, người lãnh đạo quân đội Việt Nam lại chuyển hướng tấn công chính của tác chiến mùa đông sang vùng đồng bằng sông Hồng, từ bỏ kế hoạch đã định đánh lấy Lai Châu, rút bộ đội bao vây Nà Sản về vùng Thanh Hoá, Trung Bộ Việt Nam. Ngày 22/8, Bộ chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam họp thảo luận vấn đề tác chiến. Trong cuộc họp, Võ Nguyên Giáp phát biểu nghiêng về tác chiến chính diện ở chiến trường đồng bằng Bắc Bộ. Không nhắc đến đánh lấy vùng Lai Châu, cũng không chủ trương mở thêm chiến trường Thượng Lào. Hội nghị không ra được quyết định vấn đề tác chiến mùa đông. La Quý Ba được mời tham gia hội nghị này và báo cáo Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc tình hình hội nghị này.
Ngày 27, 29 tháng 8, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc hai lần điện trả lời La Quý Ba và Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, phân tích tình hình sau khi Navarre nhận thức, nêu ý kiến về biện pháp quân sự cần áp dụng. Nhất là trong điện ngày 29, đã trình bày rõ ràng với phương châm chiến lược cần áp dụng từ nay về sau. Bức điện viết : “ Trước hết tiêu diệt địch ở vùng Lai Châu, giải phóng miền Bắc và miền Trung nước Lào, sau đó từng bước đẩy chiến trường sang Nam Lào và Cao Miên, uy hiếp Sài Gòn. Làm như vậy, thì có thể rút thu hẹp nguồn lính nguỵ, nguồn tài chính, phân tán binh lực quân Pháp, đẩy chúng vào bị động, đồng thời mở rộng bản thân Quân đội Nhân dân, chủ động tiêu diệt địch ở khắp nơi và từng bước làm suy yếu địch. Đó là điều kiện tiên quyết để đánh lấy đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam. Thực hiện kế hoạch chiến lược này đủ để đánh bại ách thống trị thực dân của đế quốc Pháp ở Việt Nam, Lào, Cao Miên. Nhưng cần phải chuẩn bị khắc phục mọi khó khăn, cần phải tính toán lâu dài ”.
Hồ Chí Minh hoàn toàn tán thành phương châm chiến lược của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc nêu ra. Trong tháng 9, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam một lần nữa thảo luận vấn đề tác chiến mùa đông của Quân đội Nhân dân. Tổng Quân uỷ QĐNDVN nêu ra hai phương án; một là đặt hướng chủ công vào vùng Tây Bắc và Thượng Lào, hai là tập trung chủ lực vào tác chiến ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Qua hội nghị thảo luận, Hồ Chí Minh rút ra kết luận phương hướng chiến lược không thay đổi tiếp tục tấn công vùng Tây Bắc và Thượng Lào, phủ định phương án tập trung chủ lực vào tác chiến ở đồng bằng Bắc Bộ. Vấn đề hướng tác chiến mùa đông cơ bản đã được giải quyết. Bộ Tổng Tham mưu quân đội Việt Nam căn cứ vào đó một lần nữa nghiên cứu vạch ra kết hoạch tác chiến, nhưng kế hoạch này chần chừ mãi không vạch ra được.
Ngày 10/10/1953, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc điện cho Trung ương Đảng Lao động Việt Nam : “ Năm 1950 chúng tôi đáp ứng đề nghị của các đồng chí lần lượt cử hai đồng chí La Quý Ba, Vi Quốc Thanh dẫn đầu một số cán bộ quân đội và cán bộ đảng địa phương sang Việt Nam làm công tác giúp đỡ có tính chất cố vấn. Về sau đồng chí Vi Quốc Thanh mắc bệnh về nước điều trị, nhất thời không thể trở lại Việt Nam công tác cho nên đồng chí La Quý Ba thống nhất phụ trách giúp các đồng chí tiến hành công tác. Nay sức khoẻ đồng chí Vi Quốc Thanh khá hơn năm ngoái, chúng tôi vẫn cử đồng chí trở lại Việt Nam công tác. Đồng thời quyết định Vi Quốc Thanh làm Tổng cố vấn quân sự, phụ trách công tác giúp chỉ đạo chiến tranh và xây dựng quân đội. Đồng chí La Quý Ba làm Tổng cố vấn chính trị, phụ trách công tác giúp xây dựng đảng, địa phương và chính sách ”. Bức điện nói : “ Vi Quốc Thanh và 4 cán bộ định trung tuần tháng này lên đường sang Việt Nam, ngày 21/10 có thể đến Bằng Tường, xin cho người đến Bằng Tường liên lạc với đồng chí ”.
Sau khi nhận nhiệm vụ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc hai lần tạm thời cử đồng chí sang Việt Nam giúp quân đội Việt Nam tổ chức chỉ huy chiến dịch Tây Bắc và chiến dịch Thượng Lào, Vi Quốc Thanh lại được bổ nhiệm làm Tổng cố vấn quân sự, lại gánh vác nhiệm vụ nặng nề, lãnh đạo Đoàn cố vấn quân sự giúp Việt Nam tổ chức chỉ huy tác chiến và xây dựng quân đội. Trước khi sang Việt Nam, đồng chí được Mao Trạch Đông tiếp và truyền đạt trực tiếp đối sách tình huống. Mùa thu Bắc Kinh trời cao lồng lộng, nắng gió chan hoà. Trong Phong Trạch Viên – Trung Nam Hải những cây tùng bách cao vút thẳng tắp xanh tốt um tùm, tràn đầy sức sống. Chiều một ngày trung tuần tháng 10, Mao Trạch Đông đi đi lại lại trong phòng sách của Người, đang suy nghĩ tình hình chiến sự Việt Nam, suy nghĩ tình hình Việt Nam La Quý Ba điện về phản ánh.
Tiếng báo cáo của cán bộ bảo vệ cắt ngang luồng suy nghĩ của Người : “ Chủ tịch, Bành tổng và đồng chí Vi Quốc Thanh đến ”.
“ Mời các đồng chí vào ”. Mao Trạch Đông nói.
Vi Quốc Thanh theo sát Bành Đức Hoài bước vào phòng sách cũng là phòng tiếp khách của Mao Trạch Đông. Mao Trạch Đông bắt tay từng đồng chí và mời họ ngồi. Bành Đức Hoài nói : “ Chủ tịch, đồng chí Vi Quốc Thanh gần đây sắp trở lại Việt Nam, lần này đến xin Chủ tịch chỉ thị trực tiếp ”.
Mao Trạch Đông : “ À ! Tôi cũng đang muốn gặp các đồng chí cùng bàn tình hình và chiến sự của Việt Nam ”. Sau đó, Người nói với Vi Quốc Thanh : “ Đồng chí đã xem kế hoạch quân sự của Navarre chưa ? ”.
Vi Quốc Thanh trả lời : “ Bộ Tổng Tham mưu có cho tôi xem rồi ”. Mao Trạch Đông lại hỏi : “ Đồng chí có ý kiến gì không ? ”. Vi Quốc Thanh trả lời : “ Đây là sự tiếp tục của kế hoạch De Lattre, tiền nhiệm của ông ta. Điểm chung của họ là ra sức phát triển nguỵ quân, thay quân Pháp chốt giữ cứ điểm, dùng người Việt đánh người Việt, làm cho quân Pháp có thể tập trung tổ thành lực lượng đột xuất làm nhiệm vụ tác chiến cơ động, để giành lại quyền chủ động chiến tranh. Ông ta nêu ra, trước hết giành thế thủ ở Bắc Bộ và ráo riết càn quét và tiến công ở Nam Bộ và Trung Bộ, sau khi ổn định hậu phương chiến lược, ông ta sẽ tập trung binh lực quyết chiến với chủ lực quân đội Việt Nam ở Bắc Bộ. Phương châm quân sự Nam trước Bắc sau này là sự phát triển của Navarre cũng là do tình thế bắt buộc ông ta như vậy ”.
Mao Trạch Đông hỏi tiếp : “ Cuối tháng 8 Trung ương có điện cho La Quý Ba, đồng chí đã xem chưa ? ”. Bành Đức Hoài trả lời : “ Tôi đã cho người đưa đồng chí xem rồi ”. Vi Quốc Thanh nói : “ Phương châm chiến lược của Trung ương vạch ra cho Việt Nam mâu thuẫn gay gắt với kế hoạch của Navarre. Thực thi phương châm chiến lược này sẽ hoàn toàn đập tan tính toán chỉ tính đến một phía của Navarre ”.
Mao Trạch Đông nói : “ La Quý Ba điện về nói Hồ Chí Minh tán thành kiến nghị đó, Bộ Chính trị cũng đã ra quyết định, nhưng kế hoạch tác chiến mùa đông của quân đội Việt Nam vẫn chần chừ chưa vạch ra được là sao ? ”. Vi Quốc Thanh nói : “ Trước chiến dịch Tây Bắc năm ngoái, trong cán bộ trung, cao cấp quân đội Việt Nam, có thể nói là đa số người không muốn đi Tây Bắc tác chiến. Chủ yếu là sợ gian khổ, sợ khó khăn, thiếu tầm nhìn chiến lược, cho rằng Tây Bắc đất rộng người thưa, là nơi nghèo, có giải phóng cũng không có ý nghĩa lớn bao nhiêu. Người phụ trách chủ yếu Tổng cục hậu cần quân đội Việt Nam lại nói Đoàn cố vấn tích cực chủ trương giải phóng Tây Bắc là vì có lợi cho Trung Quốc, có thể tiêu diệt tận sào huyệt tàn quân phỉ Quốc dân đảng ở đó, không quấy rối biên giới Vân Nam Trung Quốc nữa. Họ cho rằng, chỉ có giải phóng đồng bằng sông Hồng thì mới đã nghiện, mới có thể giành được kháng chiến thắng lợi. Qua làm công tác tư tưởng này lúc bây giờ về cơ bản được uốn nắn. Bây giờ quân địch đã rút khỏi Nà Sản, họ lại để mắt chằm chằm vào sông Hồng. Đó là bệnh cũ tái phát ”.
Mao Trạch Đông nói : “ Chà ! Họ muốn đi đường thẳng. Nhưng e rằng đường này không đi nổi. Trước mất điều kiện đánh đồng bằng sông Hồng chưa chín muồi. Vẫn phải đi một ít đường quanh co khúc khuỷu, mới có thể đến đích. Điều đó đã được thực tiễn mấy chục năm cách mạng của Trung Quốc chứng minh. Tôi thấy cách mạng Việt Nam cũng không thể đi đường thẳng. Sau khi đồng chí trở sang, phải làm nhiều công tác giải thích thuyết phục cán bộ cao cấp của Quân đội Nhân dân ”.
Vi Quốc Thanh chú ý lắng nghe mỗi lời nói của Mao Trạch Đông, và ghi lại vào quyển nhật ký bằng những từ ngữ giản đơn mà chỉ có đồng chí mới hiểu hết được ý nghĩa. Mao Trạch Đông nói tiếp : “ Tôi thấy hướng tác chiến của Việt Nam trong suốt thời kỳ từ nay về sau là nên hướng vào Trung, Nam Bộ ”. “ Để thực hiện kế hoạch chiến lược này, trước mắt cần áp dụng một số biện pháp thiết thực. Tôi nghĩ đến ba biện pháp thế này : một là dùng hai đại đoàn bộ binh và nửa đại đoàn pháo binh, trước tiên giải quyết địch ở Lai Châu, giải phóng toàn bộ vùng Tây Bắc, căn cứ chiến lược quan trọng này. Sau đó chuyển quân sang Thượng Lào, mở thêm chiến trường Thượng Lào. Đồng thời với tiến quân lên Tây Bắc, đưa một bộ phận binh lực xuống Trung Lào và Hạ Lào. Hai là kiên quyết khai thông con đường Nam tiến (chỉ con đường từ nam Liên khu 4 Trung bộ lên Trung, Thượng Lào, qua quốc lộ 9 đến Tây Nguyên), đó là đường giao thông huyết mạch của bộ đội, đánh xuống phía nam sau này, quan hệ rất lớn đến tình hình chiến sự tương lai. Nên đo đạc thật nhanh, xây dựng kế hoạch, chia giai đoạn hoàn thành. Có thể nói với các đồng chí Việt Nam, thái độ đối với làm đường tức là thái độ đối với chiến tranh. Làm đường không tích cực, không nghiêm túc tức là không tích cực, không nghiêm túc giành lấy thắng lợi chiến tranh. Ba là liên khu Việt Bắc, Liên khu 3, 4 mỗi nơi nên điều động một số cán bộ đảng, chính quyền, quân đội đến Trung, Hạ Lào và Nam Bộ Việt Nam làm công tác mở vùng mới, làm cho bộ đội đánh được nơi nào, thì củng cố nơi ấy. Giống như thời kỳ sau chiến tranh giải phóng, chúng ta điều động cán bộ miền Bắc theo Đại quân xuống miền Nam. Nói tóm lại, ba biện pháp này tức là 12 chữ : hai đại đoàn rưỡi, một đường quốc lộ, ba lớp cán bộ ”.
Nói xong Mao Trạch Đông đưa ánh mắt thăm dò nhìn vào hai người Bành Đức Hoài và Vi Quốc Thanh. Vi Quốc Thanh nói : “ Chỉ thị của Chủ tịch rất quan trọng. Sau khi tôi sang, sẽ truyền đạt tỉ mỉ cho phía Việt Nam và các đồng chí cố vấn, nghiêm chỉnh quán triệt chấp hành ”. Mao Trạch Đông nói : “ Có thể nói với các đồng chí Việt Nam, đó là kiến nghị của tôi ”. Mao Trạch Đông quay sang Bành Đức Hoài nói : “ Bành Tổng cũng nói ý kiến đi chứ ! ”.
Bành Đức Hoài nói : “ Tôi đã nói với đồng chí Quốc Thanh ý kiến của tôi về tình hình chiến tranh Việt Nam và tác chiến Tây Bắc rồi. Xin nói thêm một việc. Bản tiếng Pháp kế hoạch quân sự Navarre mà Cục tình báo Bộ tổng tham mưu lấy được, có thể mang sang cho các đồng chí Việt Nam xem, điều đó giúp ích cho các đồng chí ấy tìm hiểu kẻ địch, phân tích tình hình. Có điều phải chú ý bảo mật ”.
Hai ngày sau Mao Trạch Đông tiếp kiến, Vi Quốc Thanh cùng mấy cán bộ mới bổ nhiệm cố vấn quân sự đáp tàu hoả đi xuống phía Nam. Trong toa xe ghế mềm thoải mái, đồng chí nhìn thấy cảnh sắc cuối thu trên đồng bằng miền Bắc không ngừng lướt qua ngoài cửa sổ, trong lòng lại nghĩ đến tình hình chiến sự Việt Nam. Trong thời gian hơn ba tháng rời Việt Nam, trong bức điện La Quý Ba gửi Trung ương mà đồng chí Tổng tham mưu trưởng cho đồng chí xem, Vi Quốc Thanh hiểu được sự thay đổi to lớn của hai bên địch – bạn trên chiến trường Việt Nam. Đồng chí cảm thấy thấm thía phương châm chiến lược và mấy biện pháp quan trọng của Mao Trạch Đông nêu ra là rất kịp thời, rất chính xác. Đồng chí trù tính với đầy lòng tin là sau khi đến Việt Nam, triển khai công tác như thế nào, làm cho những kế hoạch, ý tưởng này trở thành hiện thực, mở ra cục diện mới cho cuộc chiến tranh chống Pháp của Việt Nam.
Sau khi đến Nam Ninh, dừng lại có chút việc, Vi Quốc Thanh và các đồng chí cùng đi lại lên ôtô ra Mục Nam Quan (nay gọi là Hữu Nghị Quan), về nơi ở của Đoàn cố vấn quân sự trong rừng Việt Bắc. Khi đến nơi đã là ngày 25/10. Vi Quốc Thanh lập tức thông qua Võ Nguyên Giáp xin gặp chào Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh nghe nói Vi Quốc Thanh trở lại Việt Nam rất phấn khởi, liền sắp xếp gặp đồng chí vào ngày 27.
Ngày 26/10, trước hết Vi Quốc Thanh truyền đạt chỉ thị của Mao Trạch Đông, Bành Đức Hoài cho La Quý Ba, Mai Gia Sinh, Đặng Dật Phàm và cố vấn quân sự, đồng thời nghe các cố vấn báo cáo tình hình. Đồng chí được biết thêm sau khi quân Pháp chủ động rút khỏi Nà Sản ngày 12/8, quân đội Việt Nam từ trên xuống dưới đều thở phào nhẹ nhõm, tưởng rằng không cần lên Tây Bắc tác chiến. Họ nhằm vào tình hình mới quân Pháp tập trung binh lực cơ động ở Bắc Bộ, lại đặt trọng điểm tác chiến vào vùng đồng bằng Bắc Bộ, chủ trương phân tán tập kích, chia quân ứng phó, bố trí phân tán bộ đội chủ lực ở các nơi Phú Thọ, Thái Nguyên, Thanh Hoá, Nho Quan v.v... để đối phó tấn công có thể của quân địch. Do họ bỏ Tây Bắc, nên nguỵ quân, đặc vụ ở đấy thừa cơ phát triển, gây trở ngại cho việc lại tiến quân lên Tây Bắc. Cùng với chuyển biến của tư tưởng chiến lược này, vật tư hậu cần bố trí ở Thái Nguyên và tuyến bắc Bắc Giang – Bắc Ninh, điều đó ảnh hưởng rất lớn đến hành động tiếp theo.
Sau hội nghị Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam tháng 9 ra quyết định không thay đổi phương châm chiến lược tiến quân lên Tây Bắc, bắt đầu công tác chuẩn bị cho chiến dịch Tây Bắc lần thứ hai. Nhưng những người lãnh đạo quân đội thiếu thống nhất với chuyển biến nhận thức này, hành động tương đối chậm chạp, công việc tiến triển không nhanh. Tóm lại, việc tiến quân lên Tây Bắc còn rất nhiều vấn đề chờ giải quyết.
Ngày 27, Vi Quốc Thanh được Võ Nguyên Giáp đi cùng, cưỡi ngựa đến “dinh rừng trúc” của Hồ Chí Minh, cách hàng chục dặm. Hồ Chí Minh vừa thấy Vi Quốc Thanh lập tức ôm hôn thắm thiết. Cùng dự có Trường Chinh cũng ôm hôn đồng chí, Vi Quốc Thanh chuyển kiến nghị của Mao Trạch Đông về chiến lược Nam tiến và mấy biện pháp quan trọng và ý kiến của Bành Đức Hoài về phương pháp tác chiến và vấn đề xây dựng quân đội trong tình hình chiến tranh hiện nay, đến Hồ Chí Minh, Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp và trực tiếp đưa cho Hồ Chí Minh bản tiếng Pháp kế hoạch kế hoạch quân sự Navarre.
Cách một hôm, Hồ Chí Minh hành trang gọn nhẹ, bất ngờ đến thăm Vi Quốc Thanh. Người hồ hởi nói với Vi Quốc Thanh : “ Cám ơn đồng chí từ Bắc Kinh mang đến cho chúng tôi hai món quà rất tốt. Một là kiến nghị của Mao Chủ tịch đối với tác chiến về sau, giúp chúng tôi rất lớn. Tôi và các đồng chí Bộ Chính trị đều cho rằng ý kiến của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc là đúng đắn. Thực hành những phương châm và biện pháp đó nhất định có thể đập tan kế hoạch Navarre. Tôi đã gửi điện cho đồng chí Mao Trạch Đông, tỏ rõ thái độ của chúng tôi, kiên quyết làm theo. Hai là bản tiếng Pháp kế hoạch quân sự Navarre, cũng rất giúp ích chúng tôi, làm cho chúng tôi càng hiểu địch hơn trên toàn cục. Đồng chí Võ Nguyên Giáp sau khi xem kế hoạch Navarre bị chấn động mạnh, tỏ ra thông suốt tư tưởng, hoàn toàn ủng hộ phương châm chiến lược giải phóng Tây Bắc, Thượng Lào trước rồi từng bước tiến về phía Nam ”. Hồ Chí Minh ngừng một lát rồi nói tiếp : “ Đồng chí Vi theo đồng chí trước mắt nên nắm những việc nào trước ? ”.
Vi Quốc Thanh trả lời rằng : “ Tôi cho rằng điều chủ yếu nhất trước mắt là vạch kế hoạch tác chiến tấn công mùa đông. Dựa vào kế hoạch đó để thống nhất tư tưởng, thống nhất hành động, thì các công việc dễ triển khai ”. Hồ Chí Minh nói luôn : “ Rất tốt, rất tốt, hoàn toàn nhất trí với suy nghĩ của tôi ; đồng chí phải giúp đồng chí Võ Nguyên Giáp vạch ra kế hoạch tác chiến thật nhanh, đưa Bộ chính trị thảo luận thông qua. Việc này giao cho đồng chí ”.
Vi Quốc Thanh nói : “ Xin Hồ chủ tịch yên tâm, tôi sẽ cùng đồng chí Võ Nguyên Giáp bàn bạc kỹ lưỡng, vạch ra kế hoạch này nhanh nhất ”. Hồ Chí Minh cám ơn và từ chối mời cơm của Vi Quốc Thanh, vội ra về. Với sự giúp đỡ trực tiếp của Vi Quốc Thanh và Mai Gia Sinh, kế hoạch tác chiến tấn công mùa đông 1953-1954 của quân đội Việt Nam được vạch ra rất nhanh. Ngày 3/11, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam thảo luận thông qua kế hoạch này. Vi Quốc Thanh điện báo cho Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc nội dung chủ yếu của kế hoạch này và được đồng ý. Những điểm chủ yếu của kế hoạch tác chiến này là :
1.
Hướng chủ yếu của tác chiến mùa đông là vùng Lai Châu – Tây Bắc. Sử dụng đại đoàn 308, 316 (thiếu 1 trung đoàn) và trung đoàn 148 của vùng Tây Bắc cùng 4 tiểu đoàn pháo binh và 2 tiểu đoàn công binh, tất cả binh lực là 25.000 người, ngày 10/1/1954 bắt đầu tấn công Lai Châu. Sau thắng lợi, dùng binh lực của hai trung đoàn, đầu tháng 2 tiến quân lên Phong Xa Lì – Thượng Lào. Cuối tháng 2, hai đại đoàn này lần lượt tiến sát Luông PraBang và xem tình hình đánh chiếm Huộc Xãi. Một trung đoàn khác cắm giữa Xiêng Khoảng và Luông Prabang triển khai đánh du kích.
2.
Phần lớn binh lực của các đại đoàn 312, 304 lần lượt kín đáo tập kết ở vùng Tây Bắc và Tây Phú Thọ, đại đoàn 320 tập kết giữa phủ Nho Quan và Thanh Hóa chuẩn bị khi bộ đội cơ động của quân Pháp ở đồng bằng sông Hồng, tiến theo hướng Phú Thọ, Yên Bái, Thái Nguyên, Thanh Hoá v.v.. dụ địch vào sâu, tiêu diệt một bộ phận của chúng.
3.
Đồng thời với tiến quân lên Tây Bắc, 1 trung đoàn thuộc đại đoàn 304 và 1 trung đoàn thuộc đại đoàn 325 lần lượt tiến quân sang Trung Lào theo quốc lộ 8 và quốc lộ 12. Sau khi hai trung đoàn hợp lại, xem tình hình tấn công chiếm Thà Khẹt, thị trấn quan trọng ở Trung Lào cắt đứt phòng tuyến của địch trên quốc lộ 13 và sông Mêkông.
4.
Đồng thời với tiến quân lên Thượng Lào, cử một tiểu đoàn tăng cường để phối hợp với cán bộ đảng, chính quyền quân đội triển khai công tác ở vùng mới, cắm vào vùng đồng cao nguyên Bô Lô Ven – Hạ Lào. Đồng thời, hai trung đoàn của Liên khu 5 đánh chiếm vùng bắc cao nguyên Tây Nguyên, sau đó tiến về phía tây tạo nên thế Nam Bắc đánh kẹp Hạ Lào.
Kế hoạch tác chiến này thể hiện tương đối đầy đủ kiến nghị của Mao Trạch Đông về kế hoạch chiến lược đặt cơ sở thắng lợi cho toàn bộ tác chiến tấn công mùa đông và trận quyết chiến Điện Biên Phủ về sau :
Để thực hiện thuận lợi kế hoạch tác chiến mùa đông này, từ 19-24 tháng 11, Tổng Quân uỷ QĐNDVN họp hội nghị cán bộ cấp cao. Đây là cuộc hội nghị quân sự quy mô lớn nhất trong chiến tranh chống Pháp của Việt Nam, đến dự hội nghị không chỉ có cán bộ cao cấp của bộ đội tham gia chiến đấu mà còn có các đồng chí phụ trách các chiến khu Trung Bộ và Nam Bộ. Lãnh đạo và cố vấn của Đoàn cố vấn quân sự cũng được mời dự hội nghị.
Tại hội nghị, Võ Nguyên Giáp trước tiên tuyên bố kế hoạch tác chiến tấn công mùa đông, và động viên ngắn gọn. Sau đó đi vào thảo luận. Trong thảo luận, những người dự hội nghị tuy nhất trí bày tỏ ủng hộ kế hoạch tác chiến này, nhưng vẫn bộc lộ tư tưởng ngại khó của một số người nhận thức mơ hồ và nhấn mạnh khó khăn quá mức. Ngày thứ hai hội nghị, tức 20/11, không quân Pháp thả lính dù chiếm đóng Điện Biên Phủ. Được tin, vấn đề đối xử với tình hình sau đấy như thế nào, trở thành vấn đề được mọi người quan tâm chú ý.
Vi Quốc Thanh và Mai Gia Sinh cho rằng, mục đích địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ là âm mưu ngăn chặn quân đội Việt Nam giải phóng hoàn toàn Tây Bắc và tiến quân lên Thượng Lào. Đây là một việc tốt, tạo thời cơ có lợi cho quân đội Việt Nam, cũng làm cho lực lượng cơ động của địch càng phân tán hơn. Qua trao đổi với Võ Nguyên Giáp, đi đến nhận thức nhất trí. Ngày 23, Võ Nguyên Giáp phát biểu tổng kết hội nghị. Đồng chí sắp xếp phát biểu hôm kết thúc hội nghị. Vi Quốc Thanh tuân theo chỉ thị của Mao Trạch Đông muốn đồng chí làm nhiều công tác tư tưởng đối với cán bộ cao cấp quân đội Việt Nam, đã chuẩn bị đầy đủ.
Ngày 24, hội nghị vào tiến hành trong hội trường lều tre của Bộ Tổng Tham mưu quân đội Việt Nam. Võ Nguyên Giáp nói mấy câu mở đầu, sau đó mời Vi Quốc Thanh lên phát biểu. Vi Quốc Thanh mỉm cười, gật đầu đứng dậy bước lên bục phát biểu với giọng nói chắc nịch rõ ràng : “ Thưa các đồng chí ! Tại hội nghị này kế hoạch tác chiến mùa đông được Trung ương Đảng Lao động phê chuẩn, Võ Tổng tư lệnh tuyên bố và hai lần phát biểu của đồng chí đều rất tốt, nói rất toàn diện, tôi hoàn toàn tán thành ”.
Tiếp đó, đồng chí nêu lên ngắn gọn chủ đề của bài phát biểu lần này : “ Trung ương Đảng Lao động quyết định đặt hướng chính của tác chiến mùa đông này ở vùng Tây Bắc, tiêu diệt địch ở Lai Châu, giải phóng hoàn toàn Tây Bắc, quyết sách này rất đúng đắn ”.
Khi phiên dịch tiếng Việt dịch đoạn này, đồng chí liếc nhìn quanh hội trường. Hội trường rất yên lặng. Đồng chí biết mọi người đang chờ nghe đồng chí nói tiếp. Đồng chí không có bài viết sẵn, cũng không có đề cương, nội dung muốn nói hoàn toàn nằm trong đầu đồng chí. Đây là thói quen được rèn luyện từ bao nhiêu năm. Vi Quốc Thanh nói tiếp : “ Vùng Tây Bắc tuy núi cao vực sâu, đất đai cằn cỗi, dân cư thưa thớt, nhưng đó là một căn cứ chiến lược quan trọng. Giải phóng hoàn toàn Tây Bắc, thì có thể nối liền với liên khu Việt Bắc lưng dựa vào Trung Quốc, nam tiếp giáp Lào, có lợi cho mở chiến trường Thượng Lào, tiến tới tiến xuống Trung Lào, Hạ Lào cho đến Cao Miên và Nam Bộ Việt Nam, có thể đập tan mộng tưởng của Navarre âm mưu củng cố hậu phương chiến lược của ông ta, tiến tới tập trung binh lực quyết chiến với chúng ta ở Bắc Bộ. Nếu Mỹ nhúng chân thêm vào Đông Dương, tiến hành can thiệp quân sự thì chúng ta có khu vực xoay sở khá rộng lớn để đọ sức với chúng. Có thể nói, giải phóng hoàn toàn Tây Bắc là một bước then chốt quan hệ đến phát triển của toàn bộ cuộc chiến từ nay về sau là một bước then chốt đánh bại bọn xâm lược Pháp, đập tan âm mưu can thiệp của đế quốc Mỹ ”.
Nói đến đây, đồng chí chuyển đầu đề câu chuyện : “ Nghe nói có những đồng chí còn có tư tưởng này nọ đối với việc lên vùng biên cương xa xôi Tây Bắc, Thượng Lào tác chiến, nhấn mạnh khó khăn này nọ. Cho rằng nên đặt lực lượng chủ yếu vào tấn công cứ điểm boong ke của địch ở châu thổ sông Hồng (công sự bê tông cốt thép địch xây xung quanh châu thổ sông Hồng), đánh chiếm vùng châu thổ sông Hồng, mới thực hiện được tổng phản công, giành thắng lợi chiến tranh chống Pháp. Ý muốn của các đồng chí đó rõ ràng là rất tốt. Các đồng chí đó muốn đi đường thẳng, sớm giành thắng lợi kháng chiến. Nhưng con đường này e khó đi lọt. Đây là chỗ mạnh nhất của quân Pháp ở Đông Dương, không chỉ có số lớn bộ đội tinh nhuệ, mà còn giao thông thuận tiện, có lợi cho bộ đội cơ giới hoá của địch vận động. Điều kiện trang bị kỹ thuật hiện nay của quân đội nhân dân rất bất lợi cho tiến hành tác chiến công kích quy mô tương đối lớn. Chúng ta đã có bài học kinh nghiệm về mặt này. Tránh chỗ mạnh đánh chỗ yếu, tránh chỗ thực, đánh chỗ hư là một nguyên tắc quan trọng của các nhà quân sự các thời đại trước.
Rất nhiều địa phương Tây Bắc, Thượng, Trung Hạ Lào, cho đến Cao Miên và Nam Bộ, Trung Bộ Việt Nam, đều là những vùng phòng ngự của địch mỏng yếu, chúng ta chĩa mũi nhọn tấn công vào những địa phương trên, biến hậu phương chiến lược của địch thành chiến trường mới thì có thể điều động địch, phân tán lực lượng cơ động của địch, không ngừng tiêu diệt và tiêu hao địch, từ đó thay đổi hơn nữa tình thế chiến lược của địch, tạo điều kiện cuối cùng tấn công đánh lấy đồng bằng sông Hồng. Thưa các đồng chí đó là con đường quanh co khúc khuỷu, nhưng nó là con đường tất yếu để đi đến thắng lợi cuối cùng ”.
Tiếp đó, Vi Quốc Thanh nói đến kinh nghiệm của cách mạng Trung Quốc : “ Cách mạng Trung Quốc đã đi con đường quanh co khúc khuỷu như thế. Căn cứ địa Tỉnh Cương Sơn và căn cứ địa Trung ương lấy Thụy Kim làm trung tâm do Mao Chủ tịch lãnh đạo mở ra đều ở vùng núi xa xôi, nghèo nàn giáp giới mấy tỉnh. Năm 1935, Hồng quân trải qua cuộc Trường chinh hai vạn năm nghìn dặm đến Thiểm Bắc thành lập khu Thiểm Cam Ninh lấy Diên An làm trung tâm. Nơi đây là cao nguyên hoàng thổ, đất đai cằn cỗi, nhân dân nghèo khó, nhưng Mao Chủ tịch, Trung ương đảng ở Diên An 13 năm liền, ở đây lãnh đạo toàn bộ cuộc chiến tranh chống Nhật và chiến tranh giải phóng thời kỳ đầu, về sau chỉ cần thời gian hơn một năm đã đánh bại Tưởng Giới Thạch, giành thắng lợi trong cả nước. Đó là con đường thành công nông thôn bao vây thành thị, cuối cùng đánh lấy thành thị ”.
Vi Quốc Thanh tiếp tục nói : “ Kháng chiến của Việt Nam cũng đi con đường như thế. Theo bố trí tác chiến mùa Đông năm nay của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, quyết định vạch ra chính là thể hiện cụ thể con đường này, giải phóng Tây Bắc trước, rồi tiến quân sang Thượng Lào và từng bước tiến xuống Trung – Hạ Lào, cho đến Cao Miên và Nam Bộ, Việt Nam, ở đấy làm cho chúng đảo điên nghiêng ngả, làm cho Navarre một ngày cũng không được yên, không thể không phân tán binh lực cơ động của y, như vậy sẽ xuất hiện rất nhiều cơ hội tiêu diệt địch, có thể từng bước làm suy yếu địch, làm cho mình mạnh lên cải thiện trang bị kỹ thuật của quân đội nhân dân, nâng cao tố chất quân chính của bộ đội. Đến lúc đó, có thể chắc chắn tiêu diệt địch ở đồng bằng sông Hồng, giành thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến ”.
Cuối cùng, Vi Quốc Thanh nói : “ Thưa các đồng chí ! Được sự ủng hộ đế quốc Mỹ, Navarre đang từng bước thực thi, ông ta được Mỹ viện trợ nhiều hơn, tăng cường trên trăm tiểu đoàn quân nguỵ, tổ chức hơn 80 tiểu đoàn bộ đội cơ động, đang tiến hành càn quét qui mô lớn tại các vùng chiếm đóng ở Nam bộ, Trung bộ và Bắc bộ và chuẩn bị tiến vào vùng giải phóng. Mấy ngày gần đây, Navarre lại cho lính nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, khí thế hung hăng. Nhưng y mừng quá sớm. Sắp tới đây cuộc tấn công chúng ta bắt đầu thì sẽ đánh cho hắn không kịp trở tay, rối loạn lung tung, hết phương ứng phó. Nếu Navarre kiên quyết giữ Điện Biên Phủ, tất nhiên cũng không thoát khỏi số phận bị tiêu diệt. Mà điều đó phải dựa vào người chỉ huy các cấp chỉ huy tài tình, dựa vào cán bộ chiến sĩ bộ đội anh dũng thiện chiến. Chúng tôi tin tưởng các đồng chí dũng cảm gánh vác nhiệm vụ nặng nề này. Chúng tôi xin chúc các đồng chí thắng lợi dễ dàng, mã đáo thành công ”.
Phát biểu của Vi Quốc Thanh thỉnh thoảng nổi lên từng tràng vỗ tay nhiệt liệt. Ý kiến sâu sắc, phân tích thấu đáo đó của Vi Quốc Thanh không thể không làm cho các đồng chí có tư tưởng này nọ chân thành cảm phục. Buổi nói chuyện của đồng chí Vi Quốc Thanh có tác dụng tích cực với thống nhất tư tưởng của cán bộ cao cấp quân đội Việt Nam. Sau khi kết thúc hội nghị quân sự, Vi Quốc Thanh được biết quân Pháp tiếp tục tăng viện binh lực cho Điện Biên Phủ, gấp rút xây công sự, mở sân bay, tích trữ vật tư quân sự, đồng thời tăng 6 tiểu đoàn cho Thượng Lào, đánh chiếm các nơi Mường Khè, Mường Khay v.v.. xây dựng phòng tuyến sông Mã Việt Nam để tiếp ứng cho quân đóng giữ Điện Biên Phủ.
Dấu hiệu bọn địch cố giữ Điện Biên Phủ là rất rõ ràng. Sau khi Vi Quốc Thanh và Võ Nguyên Giáp bàn tính, quyết định điều chỉnh kế hoạch tác chiến tiến quân lên Tây Bắc. Chia toàn bộ cuộc tác chiến Tây Bắc làm hai bước : đánh Lai Châu trước, đánh Điện Biên Phủ sau. Đồng thời quyết định điều thêm bộ binh, trọng pháo, cao xạ pháo, công binh v.v.. dự trù vật tư tác chiến để bảo đảm nhu cầu tấn công Điện Biên Phủ. Vi Quốc Thanh điện báo kế hoạch điều chỉnh cho Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Quân uỷ Trung ương lập tức trả lời tán thành và đồng ý giải quyết vấn đề cung cấp vật tư cần thiết cho tấn công Điện Biên Phủ.
Ngày 6/12, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam triệu tập hội nghị, thảo luận quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ, phê phán kế hoạch tác chiến nói trên của Tổng Quân uỷ và quyết định thành lập Đảng uỷ và Bộ chỉ huy tiền phương Điện Biên Phủ do Võ Nguyên Giáp làm Bí thư và Tổng chỉ huy. Sau khi kết thúc hội nghị quân sự, các bộ đội chủ lực quân đội Việt Nam lần lượt tiến vào vùng tác chiến đã định. Trên đường hành quân lên Tây Bắc, dại đoàn 316 được biết bọn địch ở Lai Châu ngày 7/12 rút về Điện Biên Phủ, lập tức tuân theo mệnh lệnh của Bộ chỉ huy tiền tuyến quân đội nhân dân truy kích bọn địch, lần lượt tiêu diệt tổng cộng 24 đại đội. Tàn quân địch chạy về Điện Biên Phủ toàn bộ vùng Lai Châu được giải phóng. Tiếp đó, Bộ chỉ huy tiền phương QĐNDVN ra lệnh cho các đại đoàn 316, 308 tiến xuống phía Nam bao vây Điện Biên Phủ.
Trung đoàn 66 đại đoàn 304 tiến xuống phía Tây dọc quốc lộ 8 và trung đoàn 101 đại đoàn 325 thiếu một tiểu đoàn được đưa xuống Hạ Lào tiến xuống phía tây dọc quốc lộ 12, ngày 21, 22 tháng 12 lần lượt tấn công cứ điểm của địch ở Trung Lào, trong mấy ngày ngắn ngủi, tiêu diệt hơn 3 tiểu đoàn cơ động Âu – Phi, tất cả hơn 2200 tên. Quân địch ở Trung Lào khiếp đảm kinh hoàng, bỏ trận địa lũ lượt tháo chạy. Bộ đội Việt Nam rất nhanh tiến đến quốc lộ 13 và sông Mêkông. Lúc này bọn địch ở Thà Khẹt tỉnh lỵ của Khăm Muộn bỏ chạy về phía nam. Quân đội nhân dân lập tức giải phóng Thà Khẹt và phần lớn vùng Trung Lào, buộc quân Pháp nhanh chóng điều động binh lực tăng viện cho Trung Lào, xây dựng tập đoàn cứ điểm ở Xơ Nua và chiếm lại Thà Khẹt. Sau đó quân đội nhân dân chuyển sang củng cố vùng mới giải phóng và làm đường xuống phía nam, đồng thời thừa cơ xuất binh diệt địch.
Ngày 20/1/1954, quân Pháp dùng binh lực của sáu trung tâm cơ động mở cuộc tấn công lớn vào Phú Yên của Liên khu 5 Trung Bộ Việt Nam, hòng thực hiện mục đích của chúng chiếm toàn bộ Nam Trung Bộ. Liên khu 5 điều động số ít binh lực ứng phó với quân địch chính diện, tập trung 2 trung đoàn chủ lực, theo bố trí sẵn của Bộ Tổng Tham mưu, ngày 24/1 mở cuộc tấn công vào quân địch ở bắc Tây Nguyên. Trận đấu thắng lợi, sau khi tấn công phá liền ba cứ điểm, nhanh chóng mở rộng chiến quả. Bọn địch đóng giữ lũ lượt bỏ chạy. Ngày 5/2, quân đội nhân dân giải phóng thị xã Kon Tum, tiêu diệt toàn bộ quân địch ở bắc Tây Nguyên. Sau đó tiếp tục tiến xuống phía nam tiến sát quốc lộ 19, và tập kích thị xã Pleiku. Đến đây quân đội nhân dân đã giải phóng 16.000 km2 đất và 200.000 dân. Quân Pháp không thể không ngừng tấn công Phú Yên, cấp tốc điều động binh lực tăng cường lực lượng phòng ngự cho thị xã Pleiku và các cứ điểm ở nam Tây Nguyên để ngăn chặn quân đội nhân dân tiếp tục tiến xuống phía Nam.
Tiểu đoàn tiền trạm của trung đoàn 101 được lệnh tiến xuống Hạ Lào, cuối tháng 1/1954 tấn công Attopeu tỉnh lỵ của Mường May, một tiểu đoàn đóng giữ ở đây bị tiêu diệt hoàn toàn. Quân địch đóng giữ các nơi ở Hạ Lào chỉ có viên chỉ huy là người Pháp, còn lại đều là nguỵ quân Lào, sức chiến đấu rất yếu. Quân đội nhân dân thừa thắng tiến lên, nhanh chóng giải phóng toàn tỉnh Mường May và phần lớn tỉnh Saravan (chiếm khoảng 2/3 tổng diện tích Hạ Lào) và hơn 200.000 dân làm cho nơi đây nối liền với vùng bắc Tây Nguyên Liên khu 5 mới giải phóng, hình thành tình thế chiến lược vô cùng có lợi.
Ban đầu khi nghiên cứu bố trí tác chiến mùa đông, Đoàn cố vấn từng nêu ra đưa một trung đoàn binh lực xuống Hạ Lào. Phía Việt Nam sợ nơi đó thiếu lương thực, bộ đội khó sống, chỉ đưa 1 tiểu đoàn, không ngờ 1 tiểu đoàn này lại giành được thành tích chiến đấu như vậy, thương vong lại rất ít, cung cấp lương thực cũng hoàn toàn không có vấn đề gì. Điều đó làm cho Võ Nguyên Giáp tăng thêm lòng tin ra lệnh điều động thêm đoàn bộ trung đoàn 101 và 1 tiểu đoàn khác đang hoạt động ở Trung Lào xuống Hạ Lào, để tăng cường sự lãnh đạo thống nhất đối với lực lượng vũ trang Hạ Lào, giúp chính phủ kháng chiến Lào xây dựng chính quyền, củng cố vùng mới giải phóng và tiếp tục phát triển xuống phía Nam.
Vi Quốc Thanh tán thành chủ trương này. Sau khi trung đoàn 101 đến Hạ Lào, tiếp tục tiến quân xuống phía nam, giải phóng vùng đồng bằng Cao Miên bao gồm VeunSai và SiemBang, nối liền vùng này với vùng mới giải phóng Hạ Lào. Trong thời gian này, một bộ phận chủ lực quân đội nhân dân ở địch hậu đồng bằng Bắc Bộ, Trung – Nam Bộ Việt Nam phối hợp với bộ đội địa phương dân quân; du kích tích cực bắt đầu chống càn quét, và chủ động đánh địch, nhổ các cứ điểm của địch, phá đường giao thông và cơ sở quân sự, đạt được thắng lợi không nhỏ.
Tấn công mùa đông của quân đội Việt Nam đạt được thắng lợi rất lớn : vùng Tây Bắc trừ ốc đảo Điện Biên Phủ đã hoàn toàn được giải phóng với binh lực có hạn, trong một thời gian rất ngắn, đã giải phóng một vùng rộng lớn bắc Tây nguyên, Trung, Hạ Lào và đồng bằng Cao Miên có ý nghĩa chiến lược quan trọng, tiêu diệt được rất nhiều quân địch, thu được số lớn vật tư quân sự, cơ bản thực hiện được kế hoạch khai thông tuyến giao thông chiến lược Nam Bắc Đông Dương, kiểm soát đông tây đường số 6, 7, 8, 9, 12, 19 của Việt Nam thông sang Trung, Hạ Lào và Campuchia đến quốc lộ 6. Tuyến giao thông chiến lược của quân Pháp ở Đông Dương hầu như bị cắt đứt toàn bộ. Điều đó làm rối loạn hoàn toàn bố trí chiến lược của Navarre, buộc ông ta không ngừng phân tán binh lực cơ động, ứng phó bị động, mệt bở hơi tai, làm cho kế hoạch quân sự của ông ta giải quyết vấn đề Đông Dương nam trước bắc sau trở thành bong bóng. Điều đó đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi về chiến lược cho quân đội nhân dân giành thắng lợi chiến dịch Điện Biên Phủ.
Quyết chiến Điện Biên Phủ (trung)
Điện Biên Phủ là vùng lòng chảo nam bắc dài khoảng 18km, đông tây rộng khoảng 6-8 km. Nam cách Lào khoảng 30km, đông cách Hà Nội hơn 300 km. Sau khi quân Pháp nhảy dù xuống đây ngày 20/11/1953, chúng đuổi hết cư dân yên lành sống ở đây, lần lượt tăng thêm binh lực, dùng máy bay vận chuyển vật liệu xây dựng, chặt phá cây rừng bừa bãi, xây đắp công sự làm cho Điện Biên Phủ trở thành tập đoàn cứ điểm có hệ thống phòng ngự hoàn chỉnh. Nơi đây có tất cả 49 cứ điểm, chia làm 8 cụm cứ điểm, 3 phân khu phòng ngự : phân khu trung tâm Mường Thanh là trụ sở cơ quan chỉ huy của quân Pháp nằm giữa thung lũng, trận địa chính của pháo binh, kho hậu cần, sân bay chủ yếu và 2/3 binh lực đều tập trung ở đây.
Phân khu bắc bao gồm hai cụm cứ điểm ở đồi Độc Lập và Bản Kéo ở bắc và tây bắc Mường Thanh, cùng với cụm cứ điểm Him Lam ở đông bắc phân khu trung tâm Mường Thanh trở thành bình phong phía bắc của Điện Biên Phủ. Vùng Hồng Cúm cách nam Mường Thanh khoảng 5km là phân khu nam, cũng có sân bay trận địa pháo binh, làm nhiệm vụ ngăn chặn quân đội nhân dân tấn công từ phía Nam. Mỗi cụm cứ điểm của quân Pháp có nhiều tầng hỏa lực hỗ trợ, đào giao thông hào chằng chịt. Xung quanh cứ điểm có một vùng làm vật cản 40-200m, trong vùng đó chằng nhiều lớp dây thép gai và lưới điện và chôn mìn dầy đặc. Đầu tháng 3/1954, địch lần lượt tăng thêm binh lực lên 12 tiểu đoàn và 7 đại đội bộ binh, lính dù, cùng với 2 tiểu đoàn pháo 105 ly, 1 đại đội pháo 155 ly, 2 đại đội súng cối 120, 1 tiểu đoàn công binh và 1 đại đội xe tăng (10 chiếc), 1 phi đội máy bay (14 chiếc), tổng binh lực khoảng 13.000 tên. Xây 2 sân bay bắc, nam. Hằng ngày địch sử dụng 100-200 lần chiếc máy bay chờ 100-300 tấn vật tư quân dụng đến Điện Biên Phủ.
Một số tướng lĩnh cao cấp của Pháp – Mỹ từng thị sát Điện Biên Phủ cho đây là “một pháo đài bất khả xâm phạm” là “Verdun của Đông Nam Á”. Quân địch cậy thế bộ đội tinh nhuệ đông, hoả lực mạnh, công sự kiên cố, bố phòng nghiêm ngặt nên không lo sợ gì. Navarre, Tổng chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương lên tiếng phải “giữ vững cứ điểm này bằng bất cứ giá nào”, phải “nghiền nát” bộ đội Việt Nam ở Điện Biên Phủ.
Trung hạ tuần tháng 12/1953, đại đoàn 316 và 308 quân đội Việt Nam nối tiếp nhau đến và bao vây Điện Biên Phủ. Tiếp theo, do Bộ Tổng Tham mưu QĐNDVN điều thêm bộ đội trọng pháo, bộ đội cao xạ pháo được Trung Quốc trang bị huấn luyện cũng lục tục tiến về Điện Biên Phủ. Vi Quốc Thanh và Mai Gia Sinh dẫn nhân viên Ban chỉ huy cố vấn cũng theo Bộ chỉ huy tiền phương quân đội Việt Nam ra tiền tuyến. Từ tây Yên Bái chỉ có một con đường lên Điện Biên Phủ. Pháo binh ra trận, dân công vận tải đều đưa vào con đường này. Để đề phòng máy bay địch, bộ đội và dân công đều ngày nghỉ đêm đi. Chiều xuống người gánh, xe chở rất chen chúc. Vi Quốc Thanh mang theo phiên dịch và bảo vệ ngồi trên xe jeep, chỉ có thể lăn bánh từ từ. Mỗi lần gặp máy bay địch bắn phá, ôtô phải tắt đèn giảm tốc độ. Gặp phải đoạn đường nguy hiểm chưa gỡ hết bom nổ chậm do máy bay địch ném xuống, phải xuống xe đi vòng. Vì vậy, xe đi một đêm không nổi 100 dặm. Trời vừa hừng sáng phải chui vào rừng sâu ẩn nấp. Vi Quốc Thanh là người nóng tính, hết sức sốt ruột với tốc độ hành quân này, nhưng không biết làm sao được.
Khi sắp đến gần tiền tuyến, có một đoạn đường, pháo tầm xa của địch thỉnh thoảng bắn vài phát để phong toả. Phía Việt Nam sắp xếp ôtô chở vật tư của đoàn cố vấn băng qua đoạn đường này, còn người thì đi vòng theo đường mòn, để bảo đảm an toàn. Để đi nhanh ra tiền tuyến, Vi Quốc Thanh kiên trì ngồi xe băng qua. Khi xe băng qua chỗ phong toả này bỗng nhiên có tiếng nổ to, một phát đạn pháo nổ ở gần đó. Vi Quốc Thanh bình tĩnh ra lệnh cho lái xe không nên hoảng hốt, lái nhanh đi qua. Sau khi đến đích, kính cửa sau ôtô bị mảnh đạn xuyên một lỗ. Khi Võ Nguyên Giáp đến thăm, nghe được chuyện này, vội nói : “ Quá nguy hiểm ! từ nay về sau bố trí hành động không thể nghe đồng chí nữa, đồng chí phải tuyệt đối nghe tôi ”. Vi Quốc Thanh cười nói : “ Vâng ! Vâng ! Từ nay về sau tuân lệnh ”.
Thượng tuần 1/1954, bộ đội được Bộ Tổng Tham mưu quân đội Việt Nam điều thêm tiếp tục đến mặt trận Điện Biên Phủ. Lúc này lực lượng QĐND Việt Nam bao vây Điện Biên Phủ có các đại đoàn bộ binh 308, 312, 316 và 304 (thiếu 1 trung đoàn) và đại đoàn công pháo binh 351 (gồm 1 trung đoàn lựu pháo, 1 trung đoàn sơn pháo, 1 trung đoàn công binh, 4 đại đội súng cối, 1 tiểu đoàn pháo cao xạ, 2 tiểu đoàn súng máy cao xạ), tổng binh lực hơn 40.000 người, chiến ưu thế tuyệt đối về binh lực. Quân đội nhân dân vừa trải qua chỉnh quân chính trị và huấn luyện quân sự, tố chất quân chính nâng cao rõ rệt. Quân địch đóng giữ Điện Biên Phủ tuy lực lượng tinh nhuệ đông, công sự khá kiên cố, nhưng xa hậu phương, bị bao vây bốn bề, rất cô lập. Vì vậy, quân đội nhân dân có điều kiện cơ bản rất tốt để giành thắng lợi chiến dịch. Nhưng do quân đội nhân dân lâu nay chưa đánh công kiên quy mô lớn nên đứng trước tập đoàn cứ điểm kiên cố của đich, có những cán bộ kể cả cán bộ cao cấp nào đó, thấy quá nhiều khó khăn, thiếu lòng tin. Căn cứ vào tình hình đó, Vi Quốc Thanh dẫn đầu Đoàn cố vấn quân sự đã làm công tác chuẩn bị trước khi chiến đấu.
Thông qua trao đổi riêng với Võ Nguyên Giáp và tham gia hội nghị của Bộ Tổng Tham mưu quân đội Việt Nam, Vi Quốc Thanh giúp phân tích tình hình, nghiên cứu cách đánh, đi đến thống nhất tư tưởng, xác định mục đích quyết tâm tác chiến. Đồng thời lợi dụng mọi cơ hội, làm công tác tư tưởng đối với cán bộ trung cao cấp quân đội Việt Nam. Tại hội nghị cán bộ trung đoàn trở lên các đơn vị tham gia tác chiến, do Bộ chỉ huy tiền phương QĐND Việt Nam triệu tập ngày 14/1/1954, khi được mời phát biểu ý kiến, Vi Quốc Thanh nêu lên sự thật đầy đủ, nói rõ phương châm tác chiến của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Tổng Quân uỷ là hoàn toàn đúng đắn. Đồng chí nêu ví dụ nói từ khi Pháp chiến tranh xâm lược Việt Nam đến nay đã thay 7 Tổng chỉ huy, còn Tổng Tư lệnh của chúng ta vẫn là Tổng Tư lệnh. Điều đó nói lên địch nhiều lần thất bại, chúng ta liên tiếp thắng lợi. Nói lên sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Tổng Quân uỷ là hoàn toàn có thể tin cậy được. Đồng chí vạch rõ, quân đội nhân dân có điều kiện, có khả năng giành thắng lợi của chiến dịch công kiên qui mô chưa từng có này. Đồng chí nói – các đơn vị bộ đội chủ lực quân đội nhân dân đã trải qua rèn luyện chiến đấu thực tế và huấn luyện quân chính. Sức chiến đấu đều được nâng cao rõ rệt, nhất là đại đoàn 308 và 312 càng trưởng thành là bộ đội có sức chiến đấu kiên cường, có thể nói một là bộ đội thép, một là bộ độ sắt, chúng ta có bộ đôi sắt thép sẽ đánh đâu thắng đó. Đồng chí cổ vũ cán bộ các cấp khắc phục mọi khó khăn, đánh tốt trận này, làm cho quân đội nhân dân tiến lên một bước lớn. Phát biểu của Vi Quốc Thanh có tác dụng cổ vũ ý chí chiến đấu, tăng thêm lòng tin.
Lúc này, khí thế của quân Pháp ở Điện Biên Phủ vẫn rất hung hăng. Một hôm, phiên dịch của Võ Nguyên Giáp cầm mấy tờ truyền đơn của máy bay quân Pháp rải xuống đến gặp Vi Quốc Thanh. Truyền đơn là lá thư viết bằng tiếng Việt của De Castries gửi Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nội dung đại ý là : “ Tôi biết bộ đội của ông đã bao vây Điện Biên Phủ, nhưng vì sao không tiến công ? Tôi đã kiên nhẫn chờ đợi. Nếu ông có gan dám mở tấn công, thì xin bắt đầu đi ! Tôi đang chờ đón những thách thức của ông, quyết một phen thắng bại với ông ! ”
Vi Quốc Thanh nghe người phiên dịch đọc hết tờ truyền đơn cười nói : “ Lão De Castries này ! Ngông cuồng lắm ! Hãy đợi đấy. Đến lúc chiến dịch mở màn, là lúc hắn khóc đấy ”. Phiên dịch báo cáo nói : “ De Castires là một danh tướng của Lục quân Pháp là cấp dưới cũ của Navarre, đã qua trường quân sự, là học viên ưu tú. Hắn vốn quân hàm Đại tá, gần đây 8 vừa được phong Thiếu tướng ”. Vi Quốc Thanh nói : “ Thế thì hãy để xem chúng ta học được gì ở học viên ưu tú này có tài chỉ huy đến đâu ”.
Đứng trước kẻ địch điên cuồng, vận dụng cách đánh nào mới giành thắng lợi ? Khi quân địch đóng giữ không quá 10 tiểu đoàn, cấu trúc công sự chưa hoàn thiện lắm, Vi Quốc Thanh từng nghĩ, quân đội Việt Nam có trọng pháo và pháo cao xạ trong điều kiện khống chế được sân bay địch và kiềm chế hỏa pháo của địch có thể áp dụng cách đánh nhanh thắng nhanh, chủ lực một cú đột phá, chọc thẳng vào trong lòng đich, tiêu diệt trước cơ quan chỉ huy, trận địa pháo binh và quân dự bị của Pháp “nở hoa từ trung tâm”, sau đó đóng từ trong đánh ra, giải quyết quyết nhanh chống cuộc chiến đấu. Võ Nguyên Giáp tán thành ý kiến này. Bộ Tổng Tham mưu QĐND Việt Nam lập tức tiến hành bố trí chiến dịch theo ý đồ đó, dự định khoảng 20/1 mở cuộc tấn công.
Nhưng khi bộ đội trọng pháo của quân đội Việt Nam đến gần Điện Biên Phủ, trước mặt không có con đường nào để đi, không thể nào tiến vào trận địa. Mặc dù Võ Nguyên Giáp ra lệnh đại đoàn 312 giúp mở đường kéo pháo, nhưng do núi cao vực sâu, địa hình phức tạp, tiến triển chậm chạp, vẫn không thể nào tiến vào trận địa trước 20/1, do đó không thể không lùi thời gian bắt đầu chiến đấu. Bộ đội trọng pháo của quân đội Việt Nam được sự giúp đỡ rất lớn của đại đoàn 312 suốt ngày đêm đạp bằng mọi chông gai, mở đường, kéo pháo. Lúc này, Vi Quốc Thanh lại nảy ra ý nghĩ mới.
Vùng Tây Bắc Việt Nam dân cư thưa thớt không có nhà dân có thể làm nơi nghỉ quân. Bộ đội Việt Nam ngày đêm đều đóng quân ngoài trời, chỉ có Đoàn cố vấn được chiếu cố đặc biệt, công binh chặt tre dựng nhà lá đơn sơ, để tránh gió mưa. Vi Quốc Thanh ở trong nhà lá mười mấy mét vuông trên sàn hầu như trải đầy bản đồ. Đồng chí thường nhìn chăm chú vào bản đồ suy nghĩ rất lâu.
Một cú đột phá, chọc thẳng vào trong lòng địch tiêu diệt cơ quan đầu não của địch, làm rối loạn hệ thống chỉ huy của chúng, làm cho địch không đánh mà bị rối loạn, từ đó đánh nhanh thắng nhanh, giành toàn thắng, đó là một cách đánh áp dụng nhiều lần và nhiều lần thành công trong chiến tranh giải phóng. Nhưng cách đánh này vận dụng ở Điện Biên Phủ có thích hợp hay không ? Sau khi tìm hiểu kỹ hơn tình hình địch ở mặt trận, trong đầu Vi Quốc Thanh lúc nào cũng lởn vởn vấn đề này. Mắt chăm chú nhìn vào cứ điểm chi chít ở Điện Biên Phủ trên bản đồ, trong lòng Vi Quốc Thanh tưởng tượng ra một tình huống phức tạp về cơ sở phòng ngự của địch. Đồng chí nghĩ, quân đội Việt Nam thiếu kinh nghiệm đánh công kiên qui mô lớn, theo tình hình địch ta hiện nay, áp dụng cách đánh này thì không nắm chắc phần thắng. Đánh không tốt, còn phải chịu thiệt hại lớn. Vì vậy, cần thay đổi phương châm tác chiến.
Biến đánh nhanh thắng nhanh thành đánh chắc thắng chắc, từ ngoại vi vào trung tâm, tiêu diệt địch từng cứ điểm một. Đợi điều kiện chín muồi, mới mở tổng công kích tiêu diệt toàn bộ quân địch đóng giữ. Như vậy, có thể làm cho quân đội Việt Nam ở vị thế chủ động và rút kinh nghiệm từ trong từng trận đánh. Muốn như vậy phải chuẩn bị tác chiến thời gian dài, các công tác chuẩn bị phải làm thêm, không thể mở tấn công ngay. Xung quanh Điện Biên Phủ hiện nay, có nhiều bộ đội như thế, làm thế nào mới có thể phát huy tác dụng? Ánh mắt của Vi Quốc Thanh lọt vào vùng Ô Giang nam Thượng Lào, phía tây nam Điện Biên Phủ. Đây là một phòng tuyến hỗ trợ cho quân đóng giữ Điện Biên Phủ mà địch mới chiếm gần đây. Chiến tuyến tương đối dài, phòng ngự tương đối yếu, cách Điện Biên Phủ không xa lắm. Lệnh cho đại đoàn 308 ở tây Điện Biên Phủ đi đánh vùng này, rất nhiều điều lợi : tiêu diệt bộ phận sinh lực địch, phân tán binh lực cơ động của địch, giải phóng một vùng rộng lớn, càng cô lập Điện Biên Phủ.
Vi Quốc Thanh nghĩ đến đây trong lòng bỗng nhiên phấn chấn, lập tức bước ra khỏi nhà, đến chỗ Mai Gia Sinh. Đồng chí và Mai Gia Sinh bàn tính tỉ mỉ ý nghĩ của mình, Vi Quốc Thanh liền gọi điện thoại cho Võ Nguyên Giáp, nói có việc cần muốn bàn. Võ Nguyên Giáp đến ngay. Vi Quốc Thanh trình bày khá tỉ mỉ ý nghĩa mới của mình với Võ Nguyên Giáp. Võ Nguyên Giáp tỏ ý hoàn toàn tán thành thay đổi phương châm tác chiến. Nhưng việc cử đại đoàn 308 đi đánh thượng Lào, thì ngỏ ý để đồng chí sau khi suy nghĩ hãy quyết định.
Đại đoàn 308 là đại đoàn chủ lực số 1 của quân đội Việt Nam. Võ Nguyên Giáp suy nghĩ đại đoàn 308 đi Thượng Lào là một nước cờ hay cũng nắm chắc thắng lợi, nhưng ở Điện Biên Phủ có hơn 10.000 quân Pháp, trang bị tốt, khí thế hung hăng, liên tục chủ động xuất kích nếu biết được đại đoàn 308 đi Thượng Lào, chúng xuất kích toàn diện thì làm thế nào ? Quân ta có thể trụ nổi không ? Phần lớn đại pháo đã chuyển lên rồi, để tránh bị tổn thất cần phải đưa xuống, bộ đội sẽ có lời ta thán cũng sẽ ảnh hưởng đến tinh thần binh sĩ. Đồng chí mất ngủ, suy nghĩ một đêm. Ngày hôm sau, đồng chí đến gặp Vi Quốc Thanh, bày tỏ đồng ý đại đoàn 308 đi Thượng Lào tác chiến, đồng thời cũng nói rõ nỗi lo lắng của mình. Nghe xong, Vi Quốc Thanh nói : “ Tôi thấy dù địch biết đại đoàn 308 đi Lào, chưa chắc dám xuất kích toàn diện. Nếu địch xuất kích toàn diện, chúng ta cũng có cách đối phó. Để tránh tổn thất có thể rút một số đại pháo đã chuyển lên là cần thiết, có thể nói rõ với bộ đội đại đoàn 312 vẫn phải tích cực mở đường chuẩn bị đưa đại pháo vào, nhất thiết không được lơ là. Bộ chỉ huy mặt trận cũng lùi về một ít, để bảo đảm an toàn ”. Võ Nguyên Giáp yên tâm, tỏ ý tán thành sự sắp xếp đó. Đồng chí lập tức ra lệnh.
Thay đổi phương châm tác chiến đánh nhanh thắng nhanh sang đánh chắc thắng chắc, rất nhanh được Trung ương Đảng Lao động Việt Nam phê chuẩn và Quân uỷ Đảng Cộng sản Trung Quốc đồng ý. Ngày 27/1, Quân uỷ Trung ương điện trả lời Vi Quốc Thanh nêu rõ : “ Tấn công Điện Biên Phủ nên áp dụng chia cắt bao vây, tiêu diệt địch từng toán một. Mỗi lần tiêu diệt khoảng 1 tiểu đoàn, chỉ cần có thể tiêu diệt hoàn toàn bốn, năm tiểu đoàn thì địch ở Điện Biên Phủ có thể dao động hoặc rút chạy về phía nam, hoặc tiếp tục tăng viện. Cả hai trường hợp đều có lợi cho chúng ta ” 9.
Cách đánh, đánh chắc thắng chắc từng bước tiêu diệt địch này, lúc bấy giờ gọi một cách hình ảnh là “bóc măng”, tức là bóc từng lớp một, ăn từng miếng một, cuối cùng tiêu diệt toàn bộ quân địch. Ngày 26/1, đại đoàn 308 tiến đến Thượng Lào, có nhiệm vụ tiêu diệt địch đóng giữ dọc bờ nam Ô Giang, xem tình hình đánh lấy Luông Prabang. Bọn địch ở phòng tuyến nam Ô giang nghe phong thanh tháo chạy. Đại đoàn 308 đuổi đánh dữ dội, trong 10 ngày tiêu diệt hơn 5 tiểu đoàn, giải phóng toàn bộ vùng lưu vực nam Ô Giang, tiến sát Luông Prabang. Navarre cấp tốc điều quân bằng máy bay từ đồng bằng Bắc Bộ và Điện Biên Phủ sang Luông Prabang và Mường Xay để chống đỡ. Đại đoàn 308 đã đạt mục đích tấn công Thượng Lào vì binh lực địch tăng thêm, cung cấp lương thực khó khăn, nên không tấn công Luông Prabang nữa, hạ tuần tháng 2 trở về vùng tây Điện Biên Phủ.
Đồng thời với đại đoàn 308 đi đánh Thượng Lào, Trung đoàn 148 quân đội Việt Nam tiến quân lên Phong Xa Lì, Thượng Lào, trung tuần tháng 2 giải phóng toàn bộ tỉnh Phong Xa Lì. Đến đây diện tích vùng giải phóng Thượng Lào lại mở rộng thêm 10.000 km2, nối liền với vùng Tây Bắc, Việt Nam. Quân địch đóng giữ Điện Biên Phủ càng thêm cô lập. Quân địch đóng giữ Điện Biên Phủ bố phòng nghiêm ngặt, công sự kiên cố hoả lực mạnh mẽ, làm thế nào mới có thể chia cắt bao vây địch, nuốt gọn từng miếng một ? Đó là vấn đề Vi Quốc Thanh ngày đêm suy nghĩ. Vi Quốc Thanh có kinh nghiệm tác chiến phong phú và đã làm Tiểu đoàn trưởng công binh thời kỳ trường chinh, nghĩ đến biện pháp thao tác áp sát và hào sâu tiếp cận địch. Tức tổ chức bộ đội đào hào sâu, lợi dụng hào sâu chia cắt, bao vây, áp sát cứ điểm địch. Sau đó bất ngờ tấn công. Như vậy có thể giảm thương vong bộ đội, lâu ngày đánh chắc, thắng chắc. Mai Gia Sinh cũng tán thành phương pháp này. Vi Quốc Thanh nói : “ Hãy bàn với các cố vấn xem sao ”.
Lúc này, vừa may cố vấn đại đoàn 308 Vu Bộ Huyết đến Ban chỉ huy báo cáo tình hình. Vu Bộ Huyết báo cáo tóm tắt tình hình đại đoàn 308 tác chiến ở Thượng Lào. Vi Quốc Thanh hỏi đồng chí : “ Đồng chí có cách gì đánh Điện Biên Phủ không ? ”. Vu Bội Huyết nói : “ Tôi nghĩ có thể dùng biện pháp áp sát. Tôi và Vương Thừa Vũ (đại đoàn trưởng 308), Lê Quang Đạo (chính uỷ 308) sau khi từ Thượng Lào trở về, ngày nào cũng tâm niệm làm thế nào để gặm cục xương cứng Điện Biên Phủ này. Tôi nêu ra trước biện pháp này, được các đồng chí ấy đồng ý, để bộ đội làm thí nghiệm trong ruộng lúa. Họ càm thấy biện pháp này được, chúng tôi lần lượt báo cáo lên ”. Mấy ngày hôm nay, Vi Quốc Thanh lại mắc bệnh đau đầu, trên trán mang một máy giải nhiệt bằng nhôm, tinh thần mệt mỏi. Lúc này đồng chí phấn khởi đứng lên nói không ngớt lời : “ Thế thì tốt rồi ! Đồng chí nói tỉ mỉ xem nào ”. Tiếp đó, đồng chí lại tập trung tinh thần lắng nghe báo cáo tỉ mỉ của Vu Bộ Huyết trong lòng đã nắm chắc.
Ngày hôm sau, Vi Quốc Thanh chính thức đưa ra kiến nghị nói trên với Võ Nguyên Giáp. Võ Nguyên Giáp phấn khởi tiếp nhận, chỉ nêu ra, quân đội Việt Nam ngoài số ít công binh ra, lâu nay chưa trang bị công cụ thao tác áp sát, đó là một khó khăn thực tế. Vi Quốc Thanh điện gấp cho Quân uỷ Trung ương Trung Quốc, yêu cầu nhanh chóng điều động số lượng lớn cuốc xẻng để đáp ứng nhu cầu khẩn cấp. Bộ Tổng Tham mưu quân đội Việt Nam tuân theo chỉ thị của Võ Nguyên Giáp vạch ra kế hoạch công trình xây dựng toàn bộ trận địa và truyền đạt cho bộ đội. Vi Quốc Thanh triệu tập họp cố vấn các đại đoàn, yêu cầu họ giúp bộ đội tổ chức thực hiện. Đồng chí còn kết hợp tình hình địch trước mắt, giới thiệu với phía Việt Nam kinh nghiệm tác chiến công kiên của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc giúp giải quyết các vấn đề chiến thuật cụ thể, để tăng thêm niềm tin thắng lợi cho bộ đội.
Quyết chiến Điện Biên Phủ (hạ)
Đến thượng tuần tháng 3/1954, quân đội Việt Nam bao vây Điện Biên Phủ đã gần 3 tháng. Trong thời gian này, ngoài việc tiến hành chuẩn bị chiến đấu quân đội nhân dân còn nhiều lần đánh lui các cuộc xuất kích quy mô nhỏ của địch đóng giữ Điện Biên Phủ, qua đó rèn luyện bộ đội. Vào lúc này, để chuẩn bị cho 5 nước Xô, Mỹ, Anh, Pháp, Trung và đại biểu các nước có liên quan tham gia hội nghị Genève thảo luận vấn đề Triều Tiên và vấn đề Đông Dương, triệu tập vào giữa tháng 4, Chu Ân Lai nêu ra với Đoàn cố vấn quân sự : “ Để giành chủ động về ngoại giao, có thể tổ chức đánh mấy trận thắng đẹp ở Việt Nam như trước khi đình chiến ở Triều Tiên không ? ”. Ngày 3/3, sau khi nhận được điện chỉ thị đó của Chu Ân Lai do Bộ Tổng Tham mưu chuyển đến, Vi Quốc Thanh cho rằng, để phối hợp với đấu tranh đàm phán ở hội nghị Genève, cần phải nỗ lực lớn nhất, tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ.
Lúc này, các mặt chuẩn bị của quân đội Việt Nam đã tương đối đầy đủ, lựu pháo và pháo cao xạ đã vào trận địa dự định điều kiện tấn công Điện Biên Phủ đã chín muồi. Sau khi Vi Quốc Thanh và Võ Nguyên Giáp bàn bạc, quyết định ngày 13/3 bắt đầu nổ súng tấn công Điện Biên Phủ.
Toàn bộ chiến dịch trải qua ba đợt.
Tác chiến đợt 1, phát triển thuận lợi. Vi Quốc Thanh cho rằng, trận đầu có thể giành được thắng lợi hay không vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của toàn bộ chiến dịch và đối với quân đội nhân dân lâu nay chưa đánh công kiên quy mô lớn như thế này mà nói, thì ảnh hưởng càng to lớn hơn. Vì vậy đồng chí dày công giúp đỡ Việt Nam tổ chức tác chiến đợt 1. Mục tiêu tác chiến là tấn công cụm cứ điểm ở Him Lam và đồi Độc Lập bắc Điện Biên Phủ mỗi nơi có 1 tiểu đoàn địch đóng giữ. Vi Quốc Thanh và phía Việt Nam nghiên cứu nhiều lần việc bố trí tác chiến, quyết định đại đoàn 312 và 308 với binh lực ưu thế tuyệt đối gấp nhiều lần địch, có pháo binh phối hợp và pháo binh của Bộ Tổng Tham mưu chi viện hoả lực, ngày 13 và đêm ngày 14/3 theo chỉ thị của Vi Quốc Thanh giúp đỡ cụ thể các bộ đội tấn công từ quan sát đến bố trí, từ chiến thuật đến kỹ thuật, từ chọn điểm xuất kích đến xây trận địa xuất phát, đều đã chuẩn bị đầy đủ, do đó cuộc chiến đấu phát triển thuận lợi.
Đêm 13, hàng trăm khẩu đại bác của quân đội Việt Nam cùng gầm lên một lúc, đạn pháo gào thét bay tới sân bay, cụm pháo binh và cứ điểm Him Lam của quân Pháp. Máy bay địch bị lật ngửa, đường bay bị phá nát, trọng pháo bị kiềm chế, từng lô cốt một trên đồi Him Lam bị phá sập. Sau đợt pháo gầm, các đội viên đột kích của đại đoàn 312 qua thao tác áp sát đã đào hào đến tận mũi quân địch, lập tức xung phong, nhanh chóng đột phá tiền duyên. Trải qua giành giật tại trung tâm, 11g30’ đêm 13 đánh chiếm toàn bộ đồi Him Lam, tiêu diệt sạch một tiểu đoàn địch.
Đêm 14, một trung đoàn bộ binh của đại đoàn 308 và một trung đoàn bộ binh của đại đoàn 312 tấn công đồi Độc Lập. Chiến đấu đến rạng sáng hôm sau, quân đội Việt Nam đã cắm lá cờ mang dòng chữ “quyết chiến quyết thắng” trên đỉnh đồi Độc Lập, tiêu diệt thêm một tiểu đoàn địch, đánh lui 1 tiểu đoàn viện binh địch, phá huỷ 1 xe tăng, bắt hơn 30 tù binh. Trận đầu kết thúc thắng lợi, quân đội Việt Nam trên dưới đều rất hân hoan. Trong lúc phấn khởi, Vi Quốc Thanh bình tĩnh trù tính tác chiến bước tiếp theo. Đêm 15, đồng chí điện báo cáo Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc : “ Hai trận chiến đấu đợt 1, đêm ngày 13 và 14 liên tiếp tấn công chiếm hai cụm cứ điểm ở bắc và đông bắc Điện Biên Phủ, tiêu diệt hoàn toàn hai tiểu đoàn Lê dương. Đây là lần đầu tiên quân đội Việt Nam sử dụng hoả lực trọng pháo có vai trò có tính quyết định đối với việc kiềm chế pháo binh địch, phối hợp tấn công. Trong ba ngày, bắn hỏng 16 máy bay địch, làm cho máy bay địch không dám hạ cánh xuống sân bay và bay thấp, trong chiến đấu nhấn mạnh thao tác áp sát và bộ pháo hiệp đồng, nên thương vong không lớn. Niềm tin của bộ đội tiếp tục vây diệt địch ở Điện Biên Phủ nâng cao hơn trước một bước. Muốn tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ còn phải mấy trận chiến đấu công kiên nữa, và trận sau khó khăn hơn trận trước. Để bảo đảm sử dụng pháo không gián đoạn khống chế sân bay và liên tục kiên trì chiến đấu tương đối dài, cần phải tiếp thêm lương thực và xăng dầu. Xin đưa thêm 3000 quả đạn pháo (cỡ 105 kiểu Mý), 3000 quả sơn pháo, 3000 thùng lớn xăng dầu đến Bằng Tường trước ngày 25/3 ”.
Quân uỷ Trung ương Trung Quốc luôn luôn dốc toàn lực chi viện cho chiến dịch Điện Biên Phủ hễ Vi Quốc Thanh nêu yêu cầu, là theo đó cấp đủ, cấp đúng.
Mấy ngày qua, tin vui liên tiếp truyền về. Viên trung tá chỉ huy pháo binh quân Pháp ở Điện Biên Phủ vì bị tổn thất nặng nề trong trận đấu pháo, mất lòng tin, dùng lựu đạn tự sát 10. Điều đó giáng một đòn vào tinh thần binh lính quân Pháp. Cứ điểm Bản Kéo rơi vào cô lập do đồi Him Lam, Độc Lập thất thủ, một tiểu đoàn lính Thái đóng giữ cứ điểm này hoang mang cực độ, ngày 27/3 ra hàng Quân đội Nhân dân. Đến đây Quân đội Nhân dân đã chiếm giữ 3 cụm cứ điểm án ngữ phía bắc Điện Biên Phủ, mở cánh cửa thông sang khu trung tâm Điện Biên Phủ. Tác chiến đợt 1 của Quân đội Nhân dân đã vượt mục tiêu dự kiến, tinh thần binh sĩ phấn chấn, niềm tin tăng lên gấp bội.
Để cứu vãn tình thế thất bại, sau tác chiến đợt 1, Navarre tiếp tục cho ba tiểu đoàn nhảy dù xuống Điện Biên Phủ (về sau trong chiến đấu đợt 2, 3 lần lượt nhảy dù thêm 2 tiểu đoàn nữa).
Tác chiến đợt 2, giành giật quyết liệt
Sau khi tổng kết kinh nghiệm trận đầu và chuẩn bị cho trận đánh tiếp theo, đêm 30/3 Quân đội Nhân dân bắt đầu tác chiến đợt 2, tấn công quân địch ở phân khu trung tâm Mường Thanh, trụ sở cơ quan chỉ huy của quân Pháp. Bố trí tác chiến của Vi Quốc Thanh và phía Việt Nam nghiên cứu xác định là : ngoài hai trung đoàn của đại đoàn 308, 312, sư 316 và toàn bộ hỏa lực pháo binh tấn công tiêu diệt địch ở điểm cao phía đông phân khu trung tâm và vùng Tây bắc sân bay, để thít chặt vòng vây, khống chế điểm cao, khống chế sân bay, cắt đường không vận của địch. Nếu phát triển thuận lợi, thì liên tục tấn công, tiêu diệt toàn bộ quân địch.
Sau khi cuộc chiến đấu bắt đầu, đột phá tiền duyên địch tương đối thuận lợi, nhưng sau khi đi vào sâu lòng địch thì phát triển rất chậm. Quân Pháp dựa vào công sự kiên cố, hoả lực dày đặc, ngoan cố chống cự và tổ chức đánh trả. Cán bộ quân đội Việt Nam thiếu khả năng ứng biến, bộ đội thương vong tăng nhiều, tấn công gặp trở ngại. Qua một tuần chiến đấu, quân đội Việt Nam hạ được 5 cứ điểm địch, tiêu diệt binh lực hơn 3 tiểu đoàn, không chế phần lớn điểm cao quan trọng phía đông Điện Biên Phủ, và hình thành tình thế có lợi đứng trên cao nhìn xuống bọn địch ở Mường Thanh. Nhưng khi tấn công cứ điểm A1 bảo vệ Mường Thanh, do quân địch lợi dụng hầm hào và nhà dưới dất ngoan cố chống cự, không thể đánh hạ được toàn bộ, hình thành thế giằng co, mỗi bên chiếm một nửa. Sau khi cao điểm C1, cứ điểm quan trọng bảo vệ Mường Thanh bị đánh hạ, quân Pháp tổ chức đánh trả, chiếm lại hơn một nửa. Hai bên giành giật nhiều lần, cuộc chiến đấu vô cùng ác liệt. Trong tác chiến hơn một tuần, các bộ đội tấn công của quân đội Việt Nam đều bị thương vong không ít.
Vi Quốc Thanh ngày đêm theo dõi phát triển của chiến cuộc. Tin tức từ tiền tuyến về có lúc hỗn loạn. Lúc thì nói hạ được một cứ điểm, sau vài giờ lại nói chưa hạ được. Tình hình tấn công cứ điểm A1 càng như thế. Lúc thì nói gặp đường hầm hào của địch đang đánh bộc phá, lúc thì lại nói, cách đường hầm còn rất xa, không thể nào đánh bộc phá được. Lúc thì nói đường hào không lớn, chỉ có số ít địch ngoan cố chống cự. Một lát sau lại nói, nhà hầm của địch rất lớn, có thể chứa hàng trăm tên. Điều đó một lần nữa phản ánh cái tật của viên chỉ huy cơ sở nào đó không đích thân theo dõi tuyệt một. Vi Quốc Thanh rất bực tức, kiến nghị phía Việt Nam nghiêm túc ra lệnh cho bộ đội tấn công điều tra rõ tình hình thực tế, để nghiên cứu đối sách. Cuối cùng rõ ra là, quân địch ở A1 lợi dụng đường hào và nhà hầm xây dựng thời kỳ quân Nhật chiếm đóng để ngoan cố chống cự và thỉnh thoảng tiến hành phản kích quân đội Việt Nam không thể nào đối phó. Vi Quốc Thanh điện gấp về Quân uỷ Trung ương Trung Quốc, báo cáo tình hình này, Quân uỷ Trung Quốc cấp tốc điều một số cán bộ từng tác chiến ở Triều Tiên có kinh nghiệm đánh đường hào, đi nhanh ra tiền tuyến Điện Biên Phủ. Họ giúp bộ đội Việt Nam đào hầm ngầm thông đến đường hào cứ điểm A1, chuẩn bị dùng thuốc nổ phá huỷ nó.
Lúc này Võ Nguyên Giáp hơi sốt ruột chưa đánh hạ được A1, liền ra lệnh tấn công C1. Đồng chí chưa bàn với Vi Quốc Thanh quyết định điều trung đoàn 102 của đại đoàn 308, ngày 11/4 tấn công đồi C1, kết quả bị hoả pháo địch sát thương nặng, toàn trung đoàn thương vong trên 700 người, không thể tiếp tục chiến đấu. Trung đoàn 102 là trung đoàn chủ lực của đại đoàn 308, là bộ đội từ khi bắt đầu chiến dịch cho đến nay chưa bị tổn thất, lần này bị trọng thương, ảnh hưởng rất lớn đến phát triển của trận đánh. Chỉ huy “quả đoán” của Võ Nguyên Giáp lần này bị không ngờ vấp váp. Vi Quốc Thanh lựa lời an ủi đồng chí, nêu ra kiến nghị tạm ngừng tiến công chuyển sang tổng kết chỉnh đốn. Võ Nguyên Giáp tiếp nhận kiến nghị này. Lúc này, hội nghị Genève sắp triệu tập, Điện Biên Phủ trở thành một điểm nóng khiến cả thế giới dõi theo sau khi Triều Tiên đình chiến, Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc rất quan tâm theo dõi tác chiến Điện Biên Phủ, luôn luôn hỏi Vi Quốc Thanh tình hình chiến sự và có nhiều chỉ thị cụ thể đối với chiến thuật tấn công Điện Biên Phủ.
Vi Quốc Thanh theo chỉ thị của Quân uỷ Trung ương Trung Quốc, kết hợp tình hình thực tế quân đội Việt Nam thương vong tương đối lớn trong tác chiến đợt hai, một mặt giúp Việt Nam tổng kết kinh nghiệm chiến đấu, cải tiến chỉ huy tác chiến bổ sung quân lính, chỉnh đốn tổ chức, khôi phục và tăng cường sức chiến đấu, để có lợi cho tiếp tục chiến đấu, đồng thời kiến nghị quân đội Việt Nam áp dụng biện pháp hữu hiệu, tăng cường bao vây và tấn công quân Pháp sau đó quân đội Việt Nam chủ động áp dụng các biện pháp sau đây :
Một là, tổ chức bộ đội đào hầm hào từng bước thắt chặt vòng vây, chia cắt quân địch ở phân khu trung tâm Mường Thanh với phân khu nam bằng hầm hào, cắt đứt liên hệ trên mặt đất giữa chúng. Đồng thời, từ các hướng đào đến tận tung thâm phân khu trung tâm Mường Thanh. Lúc này đào hầm hào trở thành phương tiện tấn công tích cực, không ngừng thu hẹp địa bàn quân Pháp chiếm đóng. Quân Pháp tuy thường xuyên pháo kích và phá hoại, nhưng các chiến sĩ quân đội Việt Nam không sợ đổ máu, mồ hôi, càng đào càng hăng, càng đào càng nhanh. Chiến hào cứ mỗi ngày một vươn dài lên phía trước, chiến hào chính, chiến hào nhánh đan xen ngang dọc, chia cắt quân Pháp từng mảnh. Đúng như miêu tả trong cuốn sách Lịch sử Quân đội Nhân dân Việt Nam của Việt Nam xuất bản những năm 70 : “ Chiến hào như những chiếc thòng lọng, mỗi ngày một xiết chặt cổ của địch ”.
Hai là, khống chế hơn nữa sân bay, cắt đứt vận chuyển hàng không của địch. Quân địch đóng giữ Điện Biên Phủ cách xa hậu phương, bị bao vây bốn bề, mọi cung ứng đều dựa vào vào vận chuyển hàng không, hằng ngày phải có trên trăm lượt chiếc máy bay chở các loạt vật tư quân sự, mới có thể duy trì nhu cầu sinh hoạt cần thiết và tiêu hao chiến đấu của hơn 10.000 quân đóng giữ. Vi Quốc Thanh coi việc cắt đứt vận chuyển hàng không là một điều kiện quan trọng để giành toàn thắng của chiến dịch. Chiến dịch bắt đầu, bộ đội cao xạ quân đội Việt Nam lần đầu tiên bước vào chiến đấu đánh cho máy bay địch bay thấp ném bom bắn phá điên cuồng bị trọng thương. Hoả lực trọng pháo của quân đội Việt Nam bắn vào sân bay buộc máy bay địch chở người và vật tư không dám thả dù phải chuyển sang thả từ trên máy bay xuống. Quân đội Việt Nam chỉnh đốn bổ sung sau khi chuẩn bị đầy đủ, liên tục công phá mấy cứ điểm địch gần sân bay, và lợi dụng ban đêm đào hào cắt ngang lưng sân bay, làm cho sân bay hoàn toàn không sử dụng được. Đi theo chiến hào của quân đội Việt Nam không ngừng vươn dài tới trước, vòng vây ngày càng hẹp lại, vật tư của máy bay địch ném xuống ngày càng nhiều (thậm chí phần lớn) rơi xuống trận địa quân đội Việt Nam. Đây là một hỗ trợ lớn đối với quân đội Việt Nam, nhưng lại là đòn đánh hết sức nặng nề với quân Pháp.
Ba là, tổ chức bộ đội triển khai hoạt động đánh chặn. Các bộ đội rất nhanh tổ chức thành nhóm diệt địch do các tay súng thần, pháo thần tham gia, bắn lén, bắn tỉa vào các mục tiêu hoạt động trên trận địa địch, không ngừng sát thương địch, buộc quân Pháp không dám hoạt động ngoài công sự, đánh mạnh vào tinh thần của quân Pháp.
Bốn là, tổ chức bộ đội triển khai tấn công chính trị. Thành phần binh lính Pháp phức tạp, nhiều loại quốc tịch. Nhằm vào tình hình này, quân đội Việt Nam dùng loa phóng thanh, bằng nhiều ngôn ngữ phát thanh, kêu gọi binh lính địch trên trận địa, có tác dụng làm suy yếu tinh thần chiến đấu của binh lính địch, tiến tới làm tan rã quân địch, thường có lẻ tẻ lính nguỵ, lính nước ngoài và lính da đen ra đầu hàng quân đội Việt Nam.
Biện pháp đấu tranh quân sự chính trị phối hợp cả hai cùng tiến hành song song với tiếp thu được hiệu quả rất tốt. Đến hạ tuần tháng 4, tình cảnh của quân Pháp hết sức khó khăn. Diện tích trong vòng vây không đầy 2 km2, toàn bộ tập đoàn cứ điểm của quân Pháp bị chia cắt thành nhiều đoạn, sân bay cũng bị quân đội Việt Nam chiếm một nửa. Do sợ quân đội Việt Nam tấn công, sĩ quan, binh lính Pháp suốt ngày co ro trong công sự. Trong nhà hầm chật ních thương binh, bốc mùi khó thở. Tinh thần quân Pháp sa sút cực độ. Lúc này, tập đoàn thống trị Mỹ không muốn nhìn thấy quân Pháp ở Điện Biên Phủ thất bại, đồng thời với tăng cường viện trợ cho Pháp, tiến hành đe doạ trắng trợn đối với Việt Nam, đưa hạm đội 7 đến Vịnh Bắc Bộ “diễn tập”, đánh tiếng sắp sử dụng máy bay ném bom B29 ném bom xuống trận địa quân đội Việt Nam ở Điện Biên Phủ, thậm chí để ngỏ ý muốn ném bom nguyên tử cỡ nhỏ.
Vào thời gian này quân đội Việt Nam cũng gặp một số vấn đề và khó khăn mới : do bộ đội đóng quân ngoài trời lâu ngày, số người không trực tiếp chiến đấu tăng lên, tác chiến liên tục nhiều tháng, người chỉ huy nảy sinh tư tưởng mệt mỏi, nhất là tư tưởng tiêu cực hữu khuynh trỗi dậy trong cán bộ. Có những cán bộ, tinh thần trách nhiệm yếu, tính tích cực chiến đấu không cao, thậm chí xuất hiện hiện tượng nghiêm trọng kiếm cớ rời khỏi vị trí chiến đấu, báo cáo láo tình hình, không chấp hành mệnh lệnh trong tình hình chiến đấu khẩn cấp v.v... Do máy bay địch bắn phá điên cuồng và mùa mưa đến, vận tải hậu cần cũng ngày càng khó khăn. Đứng trước tình hình Mỹ đe doạ, quân Pháp giãy giụa hung hăng, trong số cán bộ cao cấp quân đội Việt Nam có những người dao động niềm tin giành toàn thắng chiến dịch, thậm chí sợ Mỹ ném bom nguyên tử, cho rằng không nên đánh tiếp nữa. Vào giờ phút then chốt quan hệ đến tiêu diệt hoàn toàn quân địch hay là công dã tràng này, Vi Quốc Thanh đã bình tĩnh suy nghĩ và phân tích khách quan cho rằng, quân đội Việt Nam tuy gặp rất nhiều khó khăn, nhưng quân Pháp càng khó khăn hơn, hơn nữa không có cách gì khắc phục được chỉ cần quân đội Việt Nam không sợ hăm doạ, không sợ khó khăn, cắn chặt răng lại, kiên trì chiến đấu, nắm chặt nhược điểm của địch, liên tục tác chiến thì có thể khắc phục được khó khăn, giành toàn thắng cho chiến dịch. Đồng chí nói với các cố vấn : “Hiện tại toàn thế giới đều nhìn về Điện Biên Phủ, chúng ta không có đường lui. Chỉ có hạ quyết tâm tiêu diệt toàn bộ quân địch. Tạm thời chưa đánh được, mùa mưa đến nước dìm chết chúng. Nước không dìm chết, thì khốn khó lâu ngày, chúng cũng chết. Không lấy được Điện Biên Phủ quyết không lui quân. Các đồng chí phải chuẩn bị tư tưởng này”.
Vi Quốc Thanh trao đổi chân tình với Võ Nguyên Giáp, trình bày tỉ mỉ ý nghĩ trên đây của mình để thống nhất nhận thức, kiên định lòng tin. Hai người còn nghiên cứu biện pháp giải quyết vấn đề tư tưởng cán bộ và khắc phục khó khăn thực tế. Lúc này, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam triệu tập hội nghị mở rộng, phân tích tình hình tác chiến Điện Biên Phủ, vạch rõ thêm ý nghĩa quan trọng của chiến dịch, nhấn mạnh phải kiên quyết khắc phục tư tưởng tiêu cực hữu khuynh trong cán bộ, giành thắng lợi hoàn toàn cho chiến dịch. Cuối tháng 4, đảng uỷ tiền phương Quân đội Nhân dân triệu tập hội nghị mở rộng để quán triệt tinh thần của hội nghị mở rộng của Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Võ Nguyên Giáp báo cáo tại hội nghị chú trọng phê bình nghiêm khắc các biểu hiện của tư tưởng tiêu cực hữu khuynh trong cán bộ, đặc biệt là hành vi vô kỷ luật không chấp hành mệnh lệnh kiếm cớ rời bỏ nhiệm vụ, báo cáo láo tình hình v.v... Các cố vấn phản ánh, đây là cuộc nói chuyện chống khuynh hướng sai lầm với lập trường quan điểm rõ ràng ít có của Tổng Tư lệnh. Hội nghị này đã đặt nền móng tư tưởng cho tác chiến đợt 3, giành toàn thắng của chiến dịch.
Tác chiến đợt 3, giành toàn thắng
Từ hạ tuần tháng tư, quân Pháp có dấu hiệu tăng quân cho Thượng Lào, hòng tiếp ứng cho địch đóng giữ Điện Biên Phủ chạy xuống phía nam. Vi Quốc Thanh lập tức cùng phía Việt Nam nghiên cứu, kịp thời bố trí đề phòng địch phá vây. Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc căn cứ vào tình hình quân Pháp tập trung mấy tiểu đoàn lính dù ở Hà Nội, cuối tháng 4 đầu tháng 5 hai lần điện cho Vi Quốc Thanh, nhắc đồng chí đề phòng địch nhảy dù xuống nút giao thông quan trọng ở hậu phương quân đội nhân dân, để cắt đường tiếp tế, làm rối loạn hậu phương, và hiệp đồng với quân địch ở Thượng Lào giải vây Điện Biên Phủ.
Theo chỉ thị của Quân uỷ Trung ương Trung Quốc, Vi Quốc Thanh lại bàn với Võ Nguyên Giáp, tăng cường hơn nữa bố trí đề phòng quân địch giải vây ở hai hướng nam, bắc. Đồng thời quyết định : các đại đoàn 308, 312, 316 đêm 1/5 mở tấn công cứ điểm tây và đông sở chỉ huy Mường Thanh của quân Pháp, xiết chặt vòng vây hơn nữa. Trước hết tiêu diệt địch ở các cứ điểm đông sông Nạm Rốn rút binh lực cơ động để đối phó tình huống bất trắc. Sau khi chiến đấu bắt đầu, quân đội nhân dân rất nhanh tiêu diệt địch ở cánh sườn cứ điểm C1 và tấn công cứ điểm 505, 505A v.v.. chiến đấu đến ngày 3/5, lại tấn công tiếp cứ điểm 311A, 311B. Đến đây quân đội nhân dân đã áp sát sở chỉ huy Mường Thanh của địch.
Vi Quốc Thanh cho rằng, thời cơ tổng công kích Điện Biên Phủ đã chín muồi. Cùng với phía Việt Nam nghiên cứu, quyết định đêm 6/5 mở tổng công kích. Lúc này, đã đào xong đường ngầm thông sang đường hào cứ điểm A1, và chôn 1 tấn thuốc nổ. Sau tiếng nổ rền trời của một tấn thuốc nổ ở cứ điểm A1, cuộc tổng công kích trên toàn tuyến bắt đầu. Tất cả hoả pháo của quân đội Việt Nam kể cả pháo tên lửa 17 nòng của Trung Quốc trang bị vừa trở ra tiền tuyến cùng nã vào trận địa quân Pháp, với uy lực to lớn làm sát thương và choáng váng quân địch. Bọn địch dưới nhà hầm A1 bị thuốc nổ xé xác, bọn tàn quân trên mặt đất rất nhanh bị quét sạch. Đến sáng 7, tiêu diệt toàn bộ quân địch ở cứ điểm Châu Ôn, Na Nông, 506, làm cho Mường Thanh mất bình phong cuối cùng. Quân Pháp thấy rõ thế cờ, tiêu tan hy vọng, lúc 14g ngày 7, lục tục kéo cờ trắng, nộp vũ khí đầu hàng Quân đội Nhân dân. Thiếu tướng De Castries viên chỉ huy quân Pháp đã từng hùng hổ một thời cuối cùng cúi đầu, chắp hai tay cùng nhân viên Bộ Tham mưu của y ra làm tù binh của Quân đội Nhân dân.
Ngày hôm đó, đại đoàn 304 tấn công quân địch ở Hồng Cúm, phân khu nam. Hơn 2000 tên địch đêm tối phá vây chạy xuống phía nam, bị quân đội Việt Nam truy đuổi tiêu diệt vào nửa đêm. Đến đây, chiến dịch Điện Biên Phủ trải qua 55 ngày đêm, kết thúc với thắng lợi to lớn của quân đội Việt Nam. Thành quả chiến thắng Điện Biên Phủ rực rỡ, tiêu diệt tất cả 17 tiểu đoàn bộ binh, lính dù, 3 tiểu đoàn pháo binh, kể cả bộ đội công binh, thiết giáp, vận tải v.v... tất cả là 16.200 tên địch. Trong đó có 10.903 tù binh, bao gồm 41 sĩ quan cấp tướng tá, 1.749 sĩ quan cấp uý, bắn rơi bắn hỏng 62 máy bay thu 30 khẩu trọng pháo, 6 xe tăng hơn 30.000 chiếc dù và số lớn vũ khí đạn dược và vật tư quân dụng khác.
Chiến thắng Điện Biên Phủ như đã làm chấn động thế giới, càng chấn động nước Pháp. Chính phủ Pháp treo cờ rủ để tang cho các tướng sĩ trận vong ở Điện Biên Phủ, tập đoàn thống trị thốt lên tiếng ai oán và lời than vãn, còn những người tiến bộ trên toàn thế giới thì reo hò mừng vui. Ngày thứ hai kết thúc thắng lợi chiến dịch Điện Biên Phủ, tức ngày 8/5/1954, chính là ngày hội nghị Genève bắt đầu thảo luận vấn đề Đông Dương. Sự trùng hợp lịch sử này lại bao hàm nhân tố tất nhiên. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã phối hợp mạnh mẽ với đấu tranh ngoại giao ở hội nghị Genève, nó làm cho đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam không chỉ ở vào vị thế của người chống xâm lược, chính nghĩa, mà còn ở vào vị thế của người chiến thắng.
Đoàn đại biểu chính phủ Pháp không chỉ ở vào vị thế của kẻ xâm lược mà còn ở vào vị thế của kẻ thất bại. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã mở đường cho hội nghị Genève cuối cùng đi đến hiệp định lập lại hoà bình ở Đông Dương. Nhưng sau khi hội nghị Genève bắt đầu thảo luận vấn đề Đông Dương, đoàn đại biểu Pháp lại ra sức vẽ vời, xuyên tạc sự thật, vu khống công kích Việt Nam vấn đề đưa thương binh về nước, làm cho hội nghị trước tiến triển khai đấu tranh xoay quanh vấn đề phóng thích thương binh Pháp. Do đoàn đại biểu Việt Nam không có điện đài liên hệ trong nước, nên Trung ương đoàn, đoàn đại biểu chính phủ Trung Quốc Chu Ân Lai điện hỏi Vi Quốc Thanh về tình hình liên quan đến vấn đề phóng thích thương binh. Ngày 13/5 Chu Ân Lai gửi điện cho Vi Quốc Thanh nói : “Các nước phương Tây đang lợi dụng vấn đề thương binh ở Điện Biên Phủ để chỉ trích Liên Xô. Phía nhân sĩ tiến bộ và bạn bè mong muốn kịp thời có được tư liệu liên quan đến tình hình xử lý thương binh của phía địch ở Điện Biên Phủ, có thể điện cho biết bất cứ vào lúc nào về tình hình hai bên thương lượng thả thương binh binh nặng của phía địch và tình hình tiến triển cụ thể trong việc chuyên chở thương binh được thả để chuyển cho Phạm Văn Đồng và đoàn đại biểu Liên Xô, để có căn cứ tuyên truyền, đập tan âm mưu của địch”. Sau đó, Chu Ân Lai căn cứ và tình hình phía Pháp nói phía Việt Nam chỉ thả thương binh người nước ngoài, không thả thương binh người Việt Nam, công kích Việt Nam “kỳ thị dân tộc”, ngày 15/5 một lần nữa Chu Ân Lai điện cho Vi Quốc Thanh hỏi : “ Trong đợt đầu thả thương binh nặng có thương binh nguỵ quân Việt Nam hay không, và nếu có, nếu đợt này không có, thì trong danh sách đợt hai nên có thương binh nguỵ quân Việt Nam, và cho công bố ”.
Lúc này, ở Điện Biên Phủ cũng tiến hành cuộc đấu tranh xoay quanh vấn đề thả tù binh, bị thương nặng của quân Pháp. Theo yêu cầu của Bộ Tổng Tham mưu quân đội Việt Nam cho phép phía Pháp chở tù binh bị thương nặng của họ và cử đoàn đại biểu đến Điện Biên Phủ để bàn cách chở cụ thể, ngày 13/5 phía Pháp cử đoàn đại biểu do giáo sư Huard dẫn đầu đến Điện Biên Phủ, thương lượng với phía Việt Nam và đạt được thoả thuận như sau : “ Vì sân bay khó sửa chữa nên phía Pháp dùng máy bay trực thăng và máy bay vận tải cỡ nhỏ để chuyên chở tù binh bị thương. Trong thời gian này, phía Pháp bảo đảm ngừng hoạt động máy bay oanh tạc xung quanh Điện Biên Phủ 10 km và trên tuyến đường từ Điện Biên Phủ đi Tuần Giáo dọc quốc lộ số 41 đến Sơn La ”. Ngày hôm sau, thoả thuận được Bộ chỉ huy hai bên phê chuẩn có hiệu lực. Đợt đầu tiên tù binh bị thương nặng được chở về Hà Nội.
Phía Pháp lập tức phát hiện thoả thuận trên có lợi cho Việt Nam, phía Việt Nam có thể nhân cơ hội này vận chuyển số lớn vật tư đã thu được ra ngoài Điện Biên Phủ. Vì thế phía Pháp bác bỏ thoả thuận trước, ngày 16/5 đổi lại cử đoàn đại biểu do thiếu tá Jamis dẫn đầu đi Điện Biên Phủ đưa ra kiến nghị mới với phía Việt Nam, yêu cầu sửa chữa sân bay, để máy bay vận tải cỡ lớn vận chuyển thương binh, thay đổi điều khoản máy bay quân Pháp ngừng hoạt động bắn phá quốc lộ 41. Khi Việt Nam chưa trả lời, phía Pháp đã đơn phương ngừng chuyên chở thương binh nặng của họ và khôi phục hoạt động của máy bay trên tuyến quốc lộ 41. Phía Việt Nam lập tức vạch trần đầy đủ hành vi lật lọng đó của phía Pháp.
Vi Quốc Thanh tuân theo chỉ thị của Chu Ân Lai, trên đường từ Điện Biên Phủ trở về hậu phương, nhiều lần cùng phía Việt Nam nghiên cứu vấn đề thả tù binh bị thương, áp dụng một số biện pháp quan trọng và thuyết phục phía Việt Nam thả một số tù binh bị thương của quân nguỵ Việt Nam. Vi Quốc Thanh đã điện báo kịp thời cho Chu Ân Lai những biện pháp của phía Việt Nam thả tù binh bị thương, tình hình tiến triển thả tù binh hằng ngày và cả tài liệu Bộ Tổng tham mưu quân đội Việt Nam vạch trần phía Pháp phá hoại thoả thuận chuyên chở tù binh bị thương, từ đó làm cho đoàn đại biểu Việt Nam có sự thực xác đáng vạch trần mạnh mẽ âm mưu của phía Pháp lấy vấn đề tù binh bị thương làm cái cớ để phá hoại đàm phán hoà bình Genève.
Trải qua hơn hai tháng đấu tranh đàm phán, cuối cùng ngày 20/7, hội nghị Genève đạt được Hiệp định lập lại hoà bình ở Đông Dương. Hiệp định quy định : “ Các bên có liên quan ở Việt Nam, Lào, Campuchia chấm dứt hành động thù địch, thực hiện ngừng bắn trên toàn cõi Đông Dương, chính phủ Pháp sẽ tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào, Campuchia, rút quân đội của mình ra khỏi Đông Dương, lấy vĩ tuyến 170 Bắc làm giới tuyến quân sự tạm thời, lực lượng vũ trang Việt Nam tập kết ở phía bắc giới tuyến quân đội Pháp tập kết ở phía nam giới tuyến ”.
Ngày 22/7, hai bên Việt – Pháp ra lệnh ngừng bắn. Cuộc chiến tranh chống Pháp của Việt Nam trải qua hơn 8 năm kết thúc thắng lợi, hoà bình được lập lại ở Đông Dương. Đến đây, nhiệm vụ của Vi Quốc Thanh lãnh đạo đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc giúp Việt Nam đấu tranh chống Pháp hoàn thành thắng lợi. Trong thời gian công tác ở Việt Nam, Vi Quốc Thanh được Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm nhiệt tình và tín nhiệm rất lớn. Một số kiến nghị trọng đại của đồng chí liên quan đến tác chiến và xây dựng quân đội Việt Nam đều do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì hội nghị. Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam thảo luận quyết định. Sau đó Tổng Quân uỷ và cơ quan Bộ Tổng Tham mưu tổ chức thực hiện. Hồ Chí Minh nhiều lần đến nơi ở của Đoàn cố vấn thăm Vi Quốc Thanh và các cố vấn, thăm hỏi ân cần, quan tâm hết mực, có lúc còn mời Vi Quốc Thanh và Mai Gia Sinh, Đặng Dật Phàm cùng đến chỗ ở của Người ăn cơm, luận bàn chiến sự, kể chuyện gia đình, tự do thoải mái giãi bày tâm sự. Hồ Chí Minh còn tặng thơ cho Vi Quốc Thanh. Đó là một ngày sau chiến dịch Biên Giới, Hồ Chí Minh bất ngờ đến thăm đoàn cố vấn, gặp lúc Vi Quốc Thanh không có nhà. Ngày hôm sau, Hồ Chí Minh cho người đưa đến cho Vi Quốc Thanh một bài thơ chữ Hán
Bách lý tầm quân vi ngộ quân,
Mã đề đạp toái lĩnh đầu vân.
Quy lai ngẫu quá sơn mai thụ,
Mỗi đoá hoàng hoa nhất điểm xuân.
(Trăm dặm tìm bạn nhưng không gặp,
vó ngựa dẫm nát mây đỉnh núi.
Quay về tình cờ gặp cây mai rừng,
mỗi đoá hoa vàng một điểm xuân)
Bày tỏ tình nghĩa sâu nặng của Người đối với Vi Quốc Thanh – cũng là đối với nhân dân Trung Quốc. Khi Vi Quốc Thanh hoàn thành nhiệm vụ giúp Việt Nam sắp về nước, Hồ Chí Minh và mấy vị thành viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam : Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp và Nguyễn Chí Thanh chiêu đãi Vi Quốc Thanh tại phủ Chủ tịch Hà Nội. Trước đó phía Việt Nam đã gửi giấy mời Vi Quốc Thanh và thư ký Vương Chấn Hoa. Tối hôm đó Vi Quốc Thanh dẫn thư ký đến dự tiệc. Trong phủ Chủ tịch ánh đèn sáng choang. Khi Vi Quốc Thanh đến, Hồ Chí Minh và từng người ôm hôn đồng chí. Ngồi ở phòng khách rộng rãi sáng sủa một lát, rồi chủ khách 7 người đi vào phòng tiệc ngồi vây quanh chiếc bàn hình chữ nhật.
Hồ Chí Minh ngồi chính giữa phía chiều dài, bên phải là Vi Quốc Thanh, bên trái là Tổng Bí thư Trường Chinh. Buổi tiệc bắt đầu, Hồ Chí Minh chúc mấy câu ngắn gọn bằng tiếng Việt, ngỏ ý thư ký phiên dịch. Thư ký dịch được mấy câu thì ấp úng. Vi Quốc Thanh vội đỡ lời nói : “ Phiên dịch Hầu Hàn Giang đã về nước. Người thư ký này học được ít tiếng Việt, khó hoàn thành nhiệm vụ này lắm ! ” Hồ Chí Minh nghe xong cười nói : “ À ! Chẳng sao, tôi sẽ nói tiếng Hán vậy, lát nữa khi đồng chí nói chuyện với Trường Chinh, Nguyễn Chí Thanh, tôi làm phiên dịch ! ” Trong 5 thành viên phía Việt Nam, Hồ, Phạm, Võ đều biết chữ Hán và nói được tiếng Trung Quốc, Trường Chinh chỉ biết chữ Hán, không biết nói tiếng Trung Quốc, Nguyễn Chí Thanh biết chút ít chữ Hán cũng không nói được tiếng Trung Quốc. Vì thế sau lời chúc Hồ Chí Minh đích thân làm phiên dịch.
Mọi người và Vi Quốc Thanh trò chuyện chân tình nồng nhiệt, thể hiện tình hữu nghị chiến đấu lưu luyến bịn rịn. 34 năm sau, tức tháng 9 năm 1990, khi Bắc Kinh tổ chức Á vận hội, Võ Nguyên Giáp nhận lời mời đến Bắc Kinh khai mạc. Lúc này Vi Quốc Thanh đã qua đời hơn một năm. Võ Nguyên Giáp có nhã ý gặp thăm Hứa Kỳ Thanh, phu nhân của Vi Quốc Thanh, và con gái Vi Tiểu Nhạn. Khi Hứa Kỳ Thanh mời Võ Nguyên Giáp nói đôi lời về Vi Quốc Thanh, đồng chí trầm tư một lát rồi đánh giá như sau : “ Đồng chí Vi Quốc Thanh là con người kiên định. Thời kỳ tôi cùng làm việc với đồng chí là thời kỳ hoàng kim trong lịch sử của tôi. Chúng tôi sống với nhau trong những ngày Việt Nam gian khổ nhất. Đồng chí rất kiên định. Khi đồng chí nói sắp rời Việt Nam, chúng tôi cùng nhìn lại công tác mấy năm qua, quan hệ giữa chúng tôi rất tốt. Đồng chí tặng tôi một bức hoành xinh đẹp “ Gió đông đón khải hoàn ” vẫn treo trong phòng làm việc của tôi, người bạn tri kỷ nhất của tôi là đồng chí Vi Quốc Thanh ”.
Công tác của đồng chí Vi Quốc Thanh dẫn đầu Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc tại Việt Nam và những đóng góp của đồng chí cho cuộc chiến tranh chống Pháp của Việt Nam là một trang vẻ vang trong lịch sử Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Tình hữu nghị chiến đấu gắn bó giữa nhân dân và quân đội hai nước Trung – Việt sẽ trường tồn trong lịch sử hai nước Trung – Việt, nhân dân hai nước mãi mãi không bao giờ quên.
Vu Hoá Thầm
(đăng trong Thượng tướng phong vân lục
nhà xuất bản Đại Bách Khoa toàn thư xuất bản năm 2000.
Khi đưa vào tập sách này có sửa chữa đôi chữ cá biệt ;
tác giả là Vương Chấn Hoa, bút danh là Vu Hóa Thầm)
1 Légion Etrangère (chú thích của Diễn Đàn)
2 Đúng hơn, đó là những binh đoàn Âu-Phi, gồm thiểu số là bính lính Pháp, đa số là người Bắc Phi (Ả rập, Kabyle) và Tây Phi (da đen).
3 Xem hồi kí của La Quý Ba
4 Đây bắt đầu quá trình Mao hoá Quân đội Nhân dân, gạt bỏ các thành phần “không cơ bản”. Trong một hồi ký, Võ Nguyên Giáp kể lại rằng trong các lớp huấn luyện, cố vấn Trung Quốc thấy cán bộ Việt Nam ghi chép rất nhanh, bèn kết luận đây là nhừng phần tử “phức tạp”…
5 Theo những thông tin của chúng tôi, lần này Stalin không tiếp Hồ Chí Minh, một cách để làm sức ép. Trong một bức thiệp gửi Stalin, chủ tịch Hồ Chí Minh tỏ ý tiếc không được gặp Stalin và hứa sẽ tiến hành cải cách ruộng đất.
6 Nội dung cuộc trao đổi này thực ra là nội dung cuộc găp Stalin – Hồ Chí Minh tháng 2.1950 (xem hồi kí của Khrushev và Võ Nguyên Giáp). Cách trình bày của tác giả hàm ý giảm nhẹ trách nhiệm của Trung Quốc trong cuộc cải cách ruông đất.
7 Dịch giả Dương Danh Dy phiên âm từ Trung văn. Có lẽ là Tou Samouth, chủ tịch Mặt trận Issarak Thống nhất, bị chính quyền Sihanouk ám sát năm 1962 (cũng có nguồn tin cho rằng Pol Pot cũng nhúng tay vào cái chết của lãnh tụ Tou Samouth).
8 Sự thực đến cuối trận đánh, De Castries mới được phong thiếu tướng.
9 Ở đây, tác giả hoàn toàn viết sai sự thật. Quyết định thay đổi cách đánh là của đại tướng Võ Nguyên Giáp ngày 25.1.1954 (“quyết định khó nhất đời tôi”), giờ chót có sự ủng hộ của Vi Quốc Thanh. Bộ chính trị ĐCSVN ở xa, mấy ngày sau mới được báo cáo và tán thành. Năm 2004, trong dịp kỉ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, phía Trung Quốc có rò rỉ tin đồn là quyết định ấy dã được chính Mao Trạch Đông chuẩn y cho Vi Quốc Thanh. Nhưng cuối cùng, tại cuộc hội thảo ở Bắc Kinh, họ đã phải thừa nhận là bức điện này, ngày 27.1, Vi Quốc Thanh mới nhận được (bài viết này cũng thừa nhận ngày 27.1, nhưng trước đó lại trình bày lươn lẹo0. Có thể tham khảo tường trình về cuộc tranh luận này của nhà sử học Pháp Pierre Journoud Paris, Ha Noi, Pekin
10 Trung tá Charles Piroth (1906-1954) đã tham gia chiến đấu chống Đức. Ba lần sang Việt Nam trong hàng ngũ quân đội thực dân. Lần đầu, trong một trận đánh ở Thủ Dầu Một (tháng 12-1946) bị thương, phải cưa cụt cánh tay trái (không gây mê). Trước khi trận Điên Biên Phủ bắt đầu, Piroth cam đoan sẽ dập tắt ‘đại bác của Giáp’ ngay từ giờ đầu (điều này chắc sẽ xảy ra nếu Võ Nguyên Giáp không sáng suốt và dũng cảm thay đổi phương châm tiến công ngày 25.1.1954). Ngày 15.3, sau hai đêm và một ngày, pháo binh của Piroth hoàn toàn bất lực trước hoả lực của QĐND, không làm sao bảo vệ được các cứ điểm Him Lam và Độc Lập. Trung tá Piroth đi một vòng xin lỗi chiến hữu (C’est ma faute !), trở về boong-ke, rút chốt lựu đạn đeo trước ngực. Bộ chỉ huy của đại tá Christian de Castries giấu nhẹm tin Piroth tự tử vói binh sĩ ở Điện Biên Phủ, chôn cất Piroth ngay trong hầm. Nhưng báo chí Pháp được tin (do một nguồn tin “ẩn danh” báo qua vô tuyến) và khi báo Pháp được thả dù tiếp tế xuống Điện Biên Phủ, tin này đã lan ra các đơn vị “quân dội Liên Hiệp Pháp”, tác động như một tiếng sét giáng vào tinh thần binh sĩ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét