Chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa nhìn từ công pháp quốc tế
(VOV) - Trong tình hình hiện nay, việc xác định chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa trên cơ sở luật pháp quốc tế là một yêu cầu cần thiết.
Thời gian gần đây, tình hình Biển Đông ngày càng diễn biến phức tạp do các bên liên quan ở Biển Đông triển khai nhiều hoạt động nhằm khẳng định yêu sách chủ quyền của mình.
Thực tế này cho thấy, muốn khai thác hòa bình các nguồn tài nguyên ở Biển Đông đòi hỏi các vùng biển phải được phân định. Nhưng sự phân định này không thể xảy ra chừng nào vấn đề chủ quyền, một vấn đề tiên quyết vẫn còn để ngỏ. Trong tình hình hiện nay, việc xác định chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa trên cơ sở luật pháp quốc tế là một yêu cầu cần thiết.
Loạt bài “Chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa nhìn từ công pháp quốc tế” của nhóm phóng viên Lê Phúc, Lê Bình, Thùy Vân và Thu Lan đề cập nội dụng này.
Bài 1: Việt Nam- Nhà nước đầu tiên xác lập chủ quyền ở Hoàng Sa, Trường Sa
Trung Quốc đã trích dẫn nhiều dẫn chứng trong các sách địa lý để chứng minh chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Qua nghiên cứu thấy rằng, đúng là các đảo này đã được ghi nhận và mô tả trong đó nhưng chúng chỉ dừng lại ở việc ghi chép những hiểu biết của người Trung Quốc đương thời về địa lý, lịch sử, phong tục… các nước thuộc khu vực Đông Nam Á và Nam Á và đường hàng hải từ Trung Quốc ra nước ngoài, không có bất kỳ sự ghi chép nào về việc nhân dân Trung Quốc "đến hai quần đảo này hàng hải, sản xuất". Các tác phẩm đó chỉ được xem như các tài liệu chứng minh sự hiểu biết chung các địa điểm chứ không có ý nghĩa đáng kể trong pháp lý, nhờ đó, có thể đặt hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Cụ thể:
Nam Châu dị vật chí của Vạn Chấn (thời Tam Quốc, 220-265) viết dưới triều Hán Vũ Đế là cuốn sách hướng dẫn hằng hải trong Biển Đông nhưng lại rất không chính xác, không thể căn cứ vào đó để xác minh được quần đảo này hay quần đảo khác trong số hai quần đảo ngày nay đang bị tranh chấp.
Phù Nam truyện của Khang Thái viết cùng thời kỳ này ghi nhận rằng, đã gặp trong Trướng Hải các đảo san hô và khẳng định đây là những mô tả về quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên, đoạn trích này rất mơ hồ, rất thiếu chính xác, không thể căn cứ vào đó để nói rằng đó chính là Trường Sa.
Các tác phẩm khác như Lĩnh ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi (đời Tống, 1178), Chư phiên chí của Triệu Nhữ Quát (đời Tống, 1225), Đảo di chí lược của Vương Đại Uyên (đời Nguyên, 1349), Đông Tây dương khảo của Trương Nhiếp (1618), Vũ bị chí của Mao Nguyên Nghi (1628), Hải quốc văn kiến lục viết dưới đời Thanh, Hải Lục của Vương Bính Nam (1820), Hải quốc đồ chí của Ngụy Nguyên (1848) và Doanh hoàn chí lược của Bành Ôn Chương (1848),vv… là một tập hợp các tác phẩm liên quan đến các chuyến đi, các chuyến khảo địa lý, sách hằng hải liên quan tới các nước bên ngoài Trung Quốc.
Ông Nguyễn Đình Đầu, Ủy viên Ban chấp hành Hội Sử học Việt Nam |
Ông Nguyễn Đình Đầu, Ủy viên Ban chấp hành Hội Sử học Việt Nam cho rằng, thật khó có thể chấp nhận với các tác giả Trung Quốc khi họ rút ra từ đó kết luận: Hoàng Sa, Trường Sa từ lầu đã là lãnh thổ của Trung Quốc: “Bản đồ cổ của Trung Hoa vẽ về Việt Nam vào khoảng đầu thế kỷ XV ghi rõ địa điểm của Việt Nam là Giao chỉ quốc, nước Giao chỉ và biển thì ghi rõ là Giao chỉ dương, tức là ghi rõ đất liền là Giao chỉ quốc và biển là biển của Giao chỉ.
Hàng trăm bản đồ quốc tế khác cũng đều chỉ rõ Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam.
Tất cả đều rất thống nhất với nhau.”
Người Trung Quốc còn đưa ra các dẫn chứng khác để chứng minh chủ quyền từ lâu đời của mình đối với hai quần đảo này.
Đó là dưới thời Bắc Tống (thế kỷ thứ X-XII), các cuộc tuần tra quân sự của nước này đã được tổ chức, xuất phát từ Quảng Đông đi tới Hoàng Sa, rồi kết luận rằng "triều đình Bắc Tống đã đặt quần đảo Tây Sa và phạm vi cai quản của mình", "hải quân Trung Quốc đã đi tuần tra đến vùng quần đảo Tây Sa". Tuy nhiên, khi phân tích kỹ dữ liệu này thấy rằng, đó không phải là cuộc tuần tra mà chỉ là chuyến thăm do địa lý cho tới tận Ấn Độ Dương, không minh chứng một sự chiếm hữu nào.
Sự kiện thứ hai là việc Bộ Ngoại giao Trung Quốc dẫn sự kiện đo đạc thiên văn đầu đời Nguyên ở "Nam Hải" để nói rằng "quần đảo Tây Sa đã nằm trong cương vực Trung Quốc đời Nguyên".
Theo Nguyên Sử, bộ sử chính thức của nhà Nguyên, việc đo đạc thiên văn đầu đời Nguyên được ghi chép như sau: "Việc đo bóng mặt trời bốn biển ở hai mươi bảy nơi, Phía Đông đến Cao Ly, phía Tây đến Điền Trì, phía Nam qua Chu Nhai, phía Bắc đến Thiết Lặc". Dưới đầu đề "đo đạc bốn biển", Nguyên Sử chép rõ tên hai mươi bảy nơi đo đạc trong đó có Cao Ly, Thiết Lặc, Biển Hải, Nam Hải.
Từ sự ghi chép trong Nguyên Sử, thấy rõ việc đo đạc thiên văn ở hai mươi bảy nơi không phải là "đo đạc" "toàn quốc" như văn kiện của Bắc Kinh nói mà là "đo đạc bốn biển", cho nên mới có cả một số nơi ngoài "cương vực Trung Quốc" như Cao Ly nay là Triều Tiên, Thiết Lặc nay thuộc vùng Xi-bia của Nga, Nam Hải tức Biển Đông.
Mặt khác, chính Nguyên Sử cũng đã nói rõ "cương vực" Trung Quốc đời Nguyên, phía Nam chỉ đến đảo Hải Nam.
Cuối cùng, người Trung Quốc đưa ra các tài liệu về một cuộc tuần biển được tổ chức trong khoảng các năm 1710-1712 dưới triều nhà Thanh. Ngô Thăng, Phó tướng thủy quân Quảng Đông đã chỉ huy chuyến đi này. Người Trung Quốc khẳng định đã đi qua vùng biển tương ứng với vùng biển của quần đảo Hoàng Sa và kết luận rằng, vùng biển này “lúc đó do hải quân tỉnh Quang Đông phụ trách tuần tiễu”. Tuy nhiên, nếu dõi theo hành trình này trên bản đồ, dễ dàng nhận xét rằng, đó chỉ là một con đường đi vòng quanh đảo Hải Nam chứ không phải là hành trình tới các biển xa. Đoạn văn viết: “Từ Quỳnh Nhai, qua Đồng Cổ, Thất Châu Dương, Tứ Canh Sa, vòng quanh ba ngàn dặm”. Xin được chú thích cho rõ các địa danh này: Quỳnh Nhai gần thị trấn Hải Khẩu ngày nay, phía Bắc đảo Hải Nam; Đồng Cổ ở mỏm Đông Bắc đảo Hải Nam; Thất Châu Dương là vùng biển có 7 hòn đảo gọi là Thất Châu nằm ở phía Đông đảo Hải Nam; Tứ Canh Sa là bãi cát ở phái Tây Đảo Hải Nam.
Quan trọng hơn, ông Phạm Hoàng Quân, nhà nghiên cứu độc lập chuyên về cổ sử và cổ địa dư Trung Quốc cho rằng, những tài liệu do phía Trung Quốc đưa ra không có tính pháp lý: “Thời xưa, Trung Quốc có những nhà du hành, hằng hải, những thương thuyền, họ đi giao thiệp về chuyện buôn bán thì trong quá trình đi, họ nhìn thấy những vùng đảo, ghi chép thì đó là dạng sách du ký. Đó là những tài liệu không có tính pháp lý. Trung Quốc thường dựa vào các sách đó để nói rằng, nước này đã từng biết đến đảo này, chứ không phải tài liệu chính thống của Trung Quốc. Việc xác lập chủ quyền thì những điều được biên chép phải nằm trong trong chính sử hoặc trong sách mà bây giờ mình gọi địa chí, Trung Quốc gọi là phương chí-đó là những phương tiện được Nhà nước thừa nhận..”
Rõ ràng, Trung Quốc không phải là quốc gia đầu tiên kiểm soát thực sự các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa vì nó thiếu hẳn các yêu cầu mà luật quốc tế thời đó đòi hỏi.
Cần biết thêm rằng, từ thế kỷ thứ XVI đến thế kỷ thứ XVII đã có sự phân biệt rất rõ ràng giữa phát hiện thăm dò (discover) và phát hiện chiếm hữu (to find). Năm 1523, Vua Charles V đã nhắc nhở Đại sứ của mình, ông Juan de Zunigo rằng, một lãnh thổ mà các tàu thuyền của Vương quốc Bồ Đào Nha gặp trên đường đi thì không thể được coi là đã mang lại cho họ một danh nghĩa trên lãnh thổ đó vì nó thiếu một hành vi chiếm hữu.
Các tham vọng của Trung Quốc còn mâu thuẫn bởi chính các nguồn tư liệu của nước này. Theo đó, có nhiều tại liệu địa lý cổ mô tả và nói rõ lãnh thổ của nước này có điểm tận cùng ở phía Nam là đảo Hải Nam. Trong đó, đáng chú ý là cuốn địa chí phủ Quỳnh Châu cũng như cuốn địa chí tỉnh Quảng Đông năm 1731. Điều này cũng được ghi trongHoàng triều nhất thống Dư địa tổng đồ, phát hành năm 1894. Ngoài ra, quyển sách “Trung Quốc Địa lý học giáo khoa thư”, phát hành năm 1906 nêu ở trang 241 rằng: “điểm cực Nam của Trung Quốc là bờ biển Nhai Châu đảo Quỳnh Châu, ở vĩ tuyến 18o13’ Bắc.”
Ông Phạm Hoàng Quân, nhà nghiên cứu độc lập chuyên về cổ sử và cổ địa dư Trung Quốc cho biết: “Từ đời Hán đến đời Thanh đều có những bộ chính sử của triều đại, các mục địa lý chí nhưng chưa từng biên chép gì về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đó là điểm để người ta nhận ra rằng, Trung Quốc chưa từng xem nó thuộc về phần đất của họ. Các phần địa lý chí đều có mục xác nhận đơn vị hành chính nước này đến huyện Nhai, phủ Quỳnh Châu, tức là đảo Hải Nam.”
Qua việc xem xét kỹ các tư liệu do người Trung Quốc đưa ra, bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu kết luận: người Trung Quốc cách đây khá lâu đã biết ở Biển Đông có nhiều đảo mọc rải rác nhưng chúng không đủ làm cơ sở pháp lý để bảo vệ cho lập luận rằng, Trung Quốc là nước đầu tiên phát hiện, khai phá, khai thác và quản lý hai quần đảo này.
Với bao công sức tìm tòi, lắp ghép, xây dựng lý lẽ trong mấy chục năm qua, Trung Quốc vẫn không chứng minh được rằng nước này đã chiếm hữu các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ bao giờ, đã thực hiện "chủ quyền" đó ra sao. Đó là một việc mà họ không bao giờ có thể làm được. Vì lý do đơn giản là: Từ trước tới nay, quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa mà nhà cầm quyền Trung Quốc gọi là "Tây Sa" và "Nam Sa" chưa bao giờ là lãnh thổ Trung Quốc.
Trong khi đó, các tài liệu của Việt Nam cho thấy, Việt Nam không chỉ có sự hiểu biết lâu đời đến hai quần đảo này mà còn chiếm hữu thực sự chúng ít nhất từ thế kỷ XVII, là nhà nước đầu tiên xác lập chủ quyền trên các quần đảo này.
Nhiều sách địa lý và bản đồ cổ của Việt Nam ghi chép rõ Bãi Cát Vàng, Hoàng Sa, Vạn lý Hoàng Sa, Đại Trường Sa hoặc Vạn lý Trường Sa từ lâu đã là lãnh thổ Việt Nam.
Toàn tập Thiên Nam từ chí lộ đồ thư, được soạn vẽ vào thế kỷ XVII, ghi rõ trong lời chú giải bản đồ vùng Phủ Quảng Ngãi, xứ Quảng Nam: "giữa biển có một bãi cát dài, gọi là Bãi Cát Vàng", "Họ Nguyễn mỗi năm vào tháng cuối mùa Đông đưa mười tám chiếc thuyền đến lấy hoá vật, được phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ, súng đạn".
Ông Nguyễn Đình Đầu, Ủy viên Ban chấp hành Hội Sử học Việt Nam chỉ rõ: “Các hải đảo của Việt Nam như Trường Sa, Hoàng Sa được vẽ từ năm 1490 trong Hồng Đức bản đồ. Sau này, nhà Nguyễn (1838) vẽ bản đồ trong Đại nam nhất thống toàn đồ cũng chỉ rõ, ở bên cạnh, gần miền Trung là quần đảo Hoàng Sa, phí dưới ghi là Vạn Lý Trường Sa.”
Chứng cứ kế tiếp xác lập rõ ràng hơn chủ quyền của Việt Nam là bộ sách Phủ Biên tạp lục, cuốn sách của nhà bác học Lê Quý Đôn viết về lịch sử, địa lý, hành chính xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn (1558-1775) khi ông được triều bổ nhiệm phục vụ tại miền Nam, chép rõ đảo Đại Trường Sa (tức Hoàng Sa và Trường Sa) thuộc phủ Quảng Ngãi. Đáng chú ý, bộ sách này còn nêu rõ, Nhà nước phong kiến Việt Nam đã tổ chức việc khai thác hai quần đảo đó với tư cách một quốc gia làm chủ.
Lê Quý Đôn viết: “Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng ba nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn sáu tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền tiểu câu ra biển 3 ngày 3 đêm thì đến các đảo ấy rồi ở lại đó. Tha hồ kiếm lượm, bắt chim bắt cá mà ăn. Lấy được hóa vật của tàu, như là gươm ngựa, hoa bạc, tiền bạc, vòng bạc, đồ đồng, thiếc khối, chì đen, súng, ngà voi, sáp ong, đồ sứ, đồ chiên cùng là kiếm lượm mai đồi mồi, mai hải ba, hải sâm, hột ốc hoa, rất nhiều. Đến kỳ tháng 8 thì về, vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp. Cân và định hạng xong mới cho đem bán riêng các thứ ốc hoa, hải ba, hải sâm, rỗi lĩnh bằng trở về.
Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu suất hoặc người thôn Tứ Chính ở Bình Thuận hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu cùng các tiền tuần đò, cho đi thuyền tiểu câu ra các xứ Bắc Hải, Cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên, tìm lượm hoá vật của tàu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản".
Lê Quý Đôn còn ghi lại những sự kiện lịch sử xảy ra trước đó, như một số trận đánh giữa hạm đội Hà Lan với thủy binh nhà Nguyễn. Các sự kiện này chứng tỏ, thời ấy, nước ta đã rất chú ý tới việc kiểm soát trên biển.
Rõ ràng, các tư liệu của Việt Nam cho thấy, Việt Nam đã chiếm hữu thật sự hai quần đảo này ít ra từ thế kỷ XVII khi nó chưa thuộc chủ quyền của bất cứ quốc gia nào.
Bài 2: Việt Nam quản lý Hoàng Sa, Trường Sa liên tục và hoà bình
(VOV) - Các tài liệu lịch sử đáng tin cậy cho phép kết luận ngay rằng, từ lâu và liên tục trong hàng mấy trăm năm, Nhà nước Việt Nam đã làm chủ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Trong phần đầu của loạt bài “Chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa nhìn từ công pháp quốc tế”, chúng tôi đã đưa ra các dẫn chứng để chúng minh rằng, Việt Nam là quốc gia đầu tiên xác lập chủ quyền ở Hoàng Sa, Trường Sa.
Có một vấn đề đặt ra là: Việt Nam có tiếp tục làm chủ hai quần đảo này không? Và việc chiếm hữu, khai thác nó của Nhà nước Việt Nam có bao giờ gặp phải sự phản đối của một quốc gia nào khác không?
Các tài liệu lịch sử của Việt Nam rất nhiều, khớp với các tài liệu nước ngoài đáng tin cậy cho phép kết luận ngay rằng, từ lâu và liên tục trong hàng mấy trăm năm, từ triều đại này đến triều đại khác, Nhà nước Việt Nam đã làm chủ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Nhiều bản đồ, tập địa đồ hay sách địa lý nước ta chỉ rõ, các quần đảo là một bộ phận của nước ta, cụ thể là: Giáp Ngọ Bình Nam Đồ, 1774; Đại Nam Nhất Thống toàn đồ, 1838; Đại Nam Nhất Thống chí, 1882,…
Sự quản lý thật sự các quần đảo cũng xuất hiện trong nhiều tài liệu khác của Việt Nam. Những tài liệu quan trọng nhất có thể kể ra là: Đại Nam thực lục tiền biên, 1884 và Đại Nam thực lục chính biên, 1848; Đại Nam nhất thống chí, 1882,…
TS. Trần Công Trục, nguyên Trưởng Ban Biên giới của Chính phủ cho biết, một số tài liệu này có những lời phê bằng mực son, bút tích của nhà vua: “Trong kho lưu trữ ở Huế, chúng ta đã tìm được những bút phê của nhà vua trong việc thành lập đội Hoàng Sa, rồi cử đội này ra Hoàng Sa và Trường Sa, với thời gian cụ thể và cả các quyết định phong chức cho các đội trưởng để chỉ huy ra Hoàng Sa và Trường Sa như Phạm Quang Ảnh, Phạm Hữu Nhật,vv… mà hiện nay các tên tuổi đó được ghi nhận ở một số đảo trên quần đảo Hoàng Sa của chúng ta như đảo Hữu Nhật, Quang Ảnh, Quang Hòa. Chúng ta cũng tìm được các gia phả của các dòng họ ở xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn các văn bản của nhà vua trong việc cử các đinh tráng xung vào đội Hoàng Sa.
Đây chính là bằng chứng pháp lý để nói rằng, Nhà nước Việt Nam đã thực hiện chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”.
Nhà nước phong kiến Việt Nam từ lâu đã tổ chức việc khai thác hai quần đảo này. Các biện pháp này thể hiện chính sách quốc gia chú trọng tới các lợi ích biển.
Trong thế kỷ XVIII, nhà Nguyễn đã thành lập các đội đi biển có tính nhà nước. Tổ chức và hoạt động của chúng được mô tả chi tiết trong cuốn sách của Lê Quý Đôn năm 1776. Các đội này có nhiệm vụ đặc biệt, một số để thu lượm các hải sản tại các đảo gần bờ, số khác để thu lượm các đồ vật từ các tàu bị đắm ở ngoài khơi.
Điều này cũng được mô tả trong Toản tập Thiên nam chí lộ đồ thư từ thế kỷ XVII: “Họ Nguyễn mỗi năm vào tháng cuối mùa đông đưa 18 chiếc thuyền đến (Bãi Cát Vàng) lấy hoá vật, được phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ, súng đạn".
Hay trong Đại Nam thực lục tiền biên (1884): "Hồi đầu dựng nước, đặt đội Hoàng Sa gồm 70 người, lấy dân xã An Vĩnh sung vào, hàng năm đến tháng 3 đi thuyền ra đảo, độ ba ngày đêm thì đến, thu lượm hoá vật, đến tháng 8 trở về nộp. Lại có đội Bắc Hải mộ dân ở phường Tứ Chính ở Bình Thuận hoặc xã Cảnh Dương sung vào, được lệnh đi thuyền ra các vùng Bắc Hải, Côn Lôn thu lượm hoá vật. Đội này cũng do đội Hoàng Sa kiêm quản".
Trong giai đoạn từ năm 1771 đến năm 1802, lịch sử nước ta được đánh dấu bằng sự đối đầu của các triều đại phong kiến. Khi nhà Nguyễn được khôi phục lại (1802) đến khi ký với Pháp Hiệp ước 1884, các vua nhà Nguyễn ra sức củng cố chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Đại Nam thực lục chính biên kể lại, năm 1815, vua Gia Long cử Phạm Quang Ảnh chỉ huy đội Hoàng Sa đi thuyền ra Hoàng Sa để khảo sát và đo đạc đường biển.
Vua Minh Mạng, năm 1833, đã ra chỉ thị cho Bộ Công phái người tới dựng miếu, lập bia, trồng nhiều cây cối ở Hoàng Sa. Chỉ thị viết: “Ngày sau, cây cối to lớn, xanh tốt, người dễ nhận biết, có thể tránh được nhiều mắc cạn.”
Năm 1836, vua Minh Mạng tiếp tục thực hiện làm địa bạ toàn quốc. Đại Nam thực lục chính biên ghi lại như sau:“Phải ghi chép mọi việc, mọi chi tiết và tường trình cho trẫm rõ. Khi thuyền đến một nơi nào, một hòn đảo hay một bãi cát, thuyền trưởng phải đo kĩ chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chiều sâu, chiều rộng và cả chu vi của hòn đảo hoặc của bãi cát, độ sâu của nước vùng ở xung quanh, dò tìm các bãi đá ngầm, xem đó có nguy hiểm cho tàu bè hay không, khảo sát đất đai, đo đạc và vẽ bản đồ.”
Cùng năm này, vua Minh Mạng sai đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật đưa binh thuyền ra Hoàng Sa đo đạc, vẽ bản đồ và cắm các cọc để đánh dấu những nơi đã kiểm tra. Trên mỗi cọc có ghi dòng chữ: “Năm Minh Mạng thứ 17, năm Bính Thân (1836), thừa hành Hoàng thượng, thủy quân đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật đã ra đây, tại đảo Hoàng Sa để đo đạc địa hình và cắm cọc này để làm dấu tích.”
Bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu khẳng định, trong luật quốc tế phân tích, đã có nhiều hoạt động của Nhà nước được thực hiện để xác lập chủ quyền: lập một đội thủy binh riêng, trợ cấp về tài chính cho nó, khai thác nó, thưởng cho nó, quyết định xây dựng các công trình xây dựng trên lãnh thổ, cắm mốc chủ quyền,vv… Đó là những bằng chứng của chủ quyền theo đúng các quy tắc của luật pháp quốc tế áp dụng vào thời điểm đó: “Các triều đình phong kiến Việt Nam có giấy chứng thực chủ quyền từ thế kỷ XVI, đặc biệt là trong thế kỷ XVIII. Họ đã tổ chức quản lý các quần đảo này thông qua các đội tàu biển. Theo mùa, các đội tàu này đến các đảo để khai thác tài nguyên thiên nhiên và của cải từ xác các con tàu đắm trôi dạt vào. Họ còn dùng nhiều biện pháp như trồng cây để bảo đảm cho các vùng đó bớt nguy hiểm hơn cho các tàu bè qua lại. Người ta đã tìm thấy bằng chứng trong chiếu chỉ của vua Minh Mạng về việc này.
Trong luật quốc tế, đó là những bằng chứng của chủ quyền.”
GS. André Menras: "Trước đây, ngoài Việt Nam thì không một quốc gia nào, kể cả Trung Quốc thực thi chủ quyền ở các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa" (Ảnh: AFP) |
GS. André Menras, Chủ tịch Hiệp hội Phát triển và Trao đổi Sư phạm ở miền Nam nước Pháp khẳng định, ở thời kỳ đó, ngoài Việt Nam thì không một quốc gia nào, kể cả Trung Quốc thực thi chủ quyền ở các quần đảo này: “Tôi đã nghiên cứu rất rõ về lịch sử của Hoàng Sa và Trường Sa thì Việt Nam đã thường xuyên có mặt ở Hoàng Sa. Đội Hoàng Sa hàng năm đi làm nhiệm vụ vừa kinh tế vừa bảo vệ chủ quyền trên quần đảo đó. Trong khi đó, không có một nước nào ra Hoàng Sa, kể cả Trung Quốc. Như vậy, hồ sơ của Việt Nam rất chặt chẽ. Theo những quy định trong Công ước Luật biển năm 1982 thì đó là chủ quyền của Việt Nam.”
Tuy nhiên, có một vấn đề đặt ra là: khi xác lập chủ quyền của mình trên các đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam có bị một nước nào phản bác và chống đối hay không? Vì trong công pháp quốc tế thì chủ quyền trên một vùng đất sẽ phải bị xét lại nếu khi vừa xác lập đã bị một hay nhiều nước phản đối.
Như đã phân tích trong phần trước của loạt bài này, cho đến đầu thế kỷ XVII, các tài liệu của Trung Quốc không cho phép xác định nước này đã xác lập chủ quyền lãnh thổ đối với Hoàng Sa và Trường Sa.
Vậy thời kỳ sau đó thì sao?
Bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu khẳng định: “Mãi về sau này, Trung Quốc mới có yêu sách về chủ quyền đối với các quần đảo. Đối với Hoàng Sa, Trung Quốc có yêu sách về chủ quyền bắt đầu từ năm 1909. Còn đối với Trường Sa là sau Chiến tranh thế giới thứ hai.”
Trong tất cả các tài liệu của Trung Quốc đều nhắc rằng, các ngư dân nước này đã đến các đảo này hàng ngàn năm nay nhằm chứng minh rằng nhân dân nước này đã “phát hiện” và “khai phá kinh doanh”. Nhưng đó chỉ là những hành vi cá nhân, không có đặc quyền, không phù hợp với một sự chiếm hữu hay ý định khẳng định chủ quyền. Việc chiếm cứ của cá nhân không thể là hành động nhân danh chính phủ của họ, không thể tạo thành một sự chiếm hữu. Hơn nữa, trong cùng thời kỳ này, chính ngư dân Việt Nam cũng hay lui tới các quần đảo đó.
Trên thực tế, việc chiếm hữu và khai thác của Nhà nước Việt Nam đối với hai quần đảo này không bao giờ gặp phải sự phản đối của một quốc gia nào khác kể cả Trung Quốc.
Trong các sử liệu Trung Quốc có cả các tài liệu chứng tỏ nước này không hề có một đòi hỏi nào đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ví như Trong Hải lục viết: “Vạn lý Trường Sa là đất nổi giữa biển, dài vài ngàn dặm, là phên dậu của An Nam”. Từ đó ta thấy rằng, Trung Quốc không có các hành vi thực thi chủ quyền mà còn im lặng, đồng tình với sự chiếm hữu của Việt Nam.
Tướng quân đội Pháp Daniel Schaeffer: Việt Nam có những tài liệu khẳng định quyền của mình từ xa xưa không có nghi ngờ gì đối với các đảo Hoàng Sa |
Ngoài Trung Quốc, các quốc gia khác có hay không biểu lộ ý định thực thi chủ quyền?
Câu trả lời là, lúc đó, không có một quốc gia nào khác trong vùng đã đưa ra yêu sách. Thực tế ngày nay cũng cho thấy, không một quốc gia nào có ý định đưa ra yêu sách có từ thế kỷ XIX hay trước đó.
Cần biết thêm rằng, năm 1898, trong Hiệp ước Paris giữa Tây Ban Nha và Mỹ chuyển giao Philippines. Như vậy, trước khi có Hiệp ước bảo hộ của Pháp năm 1884, Việt Nam đã thực sự chiếm hữu mà không có cạnh tranh trong nhiều thế kỷ đối với các đảo theo đúng chế độ luật pháp của thời kỳ đó.
Đến đây đặt ra vấn đề củng cố danh nghĩa và nhất là việc duy trì danh nghĩa này liên quan tới tiến triển của luật pháp quốc tế.
Chúng tôi sẽ đề cập nội dung này trong phần tiếp theo.
Bài 3: Chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa thời Pháp thuộc
(VOV) - Thời cai trị của Pháp, các quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa có bị mất đi?
Danh nghĩa chủ quyền của Việt Nam với Hoàng Sa và Trường Sa được xác định rõ ràng ít nhất từ thế kỷ VXII. Tuy nhiên, trong thời kỳ Việt Nam là thuộc địa của Pháp thì có một vấn đề được đặt ra là: Dưới thời cai trị của Pháp, các quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa có bị mất đi, cho phép nảy sinh một danh nghĩa có lợi cho một quốc gia khác, chẳng hạn như Trung Quốc?
Chúng ta cùng tìm hiểu vấn đề này qua việc phân tích chính sách của Trung Quốc và thái độ của nước Pháp trong thời kỳ này.
Từ năm 1884 đến năm 1909, không có bằng chứng nào chứng tỏ sự quan tâm của Trung Quốc đối với các quần đảo Hoàng Sa. Chỉ có một sự kiện duy nhất được các nhà biên niên sử ghi lại. Nội dung này khẳng định rõ ràng, Trung Quốc đồng ý với sự chiếm hữu của nước khác.
Ông Hoàng Việt, giảng viên Trường Đại học Luật TP.HCM |
Nội dung câu chuyện này còn được lưu lại trong một văn thư của Phủ Toàn quyền Đông Dương (Vụ Giám đốc các công việc chính trị và bản xứ) ngày 6.5.1921.
Rõ ràng, các nhà chức trách địa phương đã phủ nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với các quần đào này. Ý kiến của nhà chức trách địa phương, người nắm rõ nhất tình hình thực tế, là không có sự sáp nhập hành chính, bằng chứng của việc không quản lý.
Tuy nhiên, kể năm 1909, Trung Quốc bắt đầu thay đổi thái độ của mình đối với quần đảo Hoàng Sa. Trong năm này, Trung Quốc nói rằng đã phái một đoàn đi “thị sát” các đảo Hoàng Sa. Theo đó, đô đốc Quảng Đông Lý Chuẩn theo lệnh của Tổng đốc Lưỡng Quảng Trương Nhân Tuấn đưa 170 lính thuỷ đổ bộ chớp nhoáng lên đó, gọi đó là thực hiện “quyền cai quản” của mình. Cần khẳng định ngay rằng, đây là hành động xâm phạm chủ quyền Việt Nam vì lúc đó quần đảo này đã thuộc Việt Nam, tuyệt đối không thể coi là việc thực hiện "chủ quyền" của Trung Quốc.
Ngày 30 tháng 3 năm 1921, Thống đốc dân sự Quảng Đông quyết định sáp nhập các đảo Hoàng Sa vào Nhai huyện (Hải Nam). Về sự kiện này, công sứ Pháp ở Trung Quốc không đưa ra lời phản đối chính thức nào vì cho rằng, hành động này được đưa ra bởi một chính phủ không được cả chính phủ trung ương Trung Quốc lẫn các nước khác thừa nhận,vv…
Theo Bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu, chính các hành vi của Trung Quốc trong năm 1895 (từ chối trách nhiệm về các vụ đắm tàu ở Hoàng Sa vì các đảo đó không thuộc Trung Quốc), rồi đến năm 1909 (đổ bộ chớp nhoáng lên một vài đảo trong quần đảo Hoàng Sa, qua đó khẳng định chủ quyền của Trung Quốc) đã làm suy yếu tất cả những lời khẳng định khác về việc chiếm đóng của nước này từ hàng thế kỷ xa xưa. Những hành vi trong năm 1909, dù có bổ sung thêm việc sáp nhập về hành chính nhưng không đủ cấu thành một sự chiếm hữu lâu dài, thật sự, hòa bình và liên tục. Các hành vi này được thực hiện bởi một chính phủ không được ghi nhận trong sự liên tục của nhà nước Trung Quốc. Như vậy, Trung Quốc không hội đủ các điều kiện để tạo ra một tình thế cho phép họ phủ nhận các quyền đã có từ trước của Việt Nam.
Tháng 3.1932, người Trung Quốc cho đấu thầu công khai ở Quảng Châu các quyền khai thác phân chim ở quần đảo Hoàng Sa. Pháp đã gửi công hàm cho Trung Quốc phản đối và khẳng định các quyền của mình và trong trường hợp Trung Quốc không thừa nhận quyền đó, đề nghị đưa ra trọng tài.
Theo Quyết định Postdam tháng 8.1945 giữa Liên Xô, Anh và Mỹ, Trung Hoa Dân quốc được giao tiếp nhận việc giải giáp quân Nhật từ vĩ tuyến 16o trở lên. Vì lý do này, Tưởng Giới Thạch đã chiếm đóng Hoàng Sa vào năm 1946. Và cũng làm như vậy với quần đảo Trường Sa mặc dù không được đồng minh ủy quyền. Dựa vào sự có mặt này, vào năm 1947, Bộ Nội vụ của Chính phủ Trung Quốc thời kỳ đó đã phát hành một tập bàn đồ trong đó thể hiện Trung Quốc bao gồm cả các quần đảo này. Cần khẳng định rằng, điều này không có nghĩa là nước này đã có các quyền “lịch sử” trên các đảo này, bởi vì sự bao gộp này hết sức muộn mằn và gắn liền với những hoàn cảnh đặc biệt.
Từ năm 1950, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa lặp lại các yêu sách của Trung Hoa Dân quốc nhưng không chỉ đối với Hoàng Sa mà cả Trường Sa.
Tuy nhiên, cũng trong giai đoạn này (1884-1956), chính phủ Pháp ở Đông Dương đã liên tục thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Hiệp ước Giáp Thân (1884) là Hiệp ước được Triều đình Huế kí với nước Pháp công nhận sự bảo hộ của Pháp. Kể từ đây, Pháp thay mặt Việt Nam trong những quan hệ ngoại giao với nước ngoài bên cạnh việc đảm bảo chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam, trong đó có việc tiếp tục thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Bà Monique Chemillier Gendreau |
Đúng như vậy! Bộ Thuộc địa và Phủ Toàn quyền Đông Dương đề cập đến chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa ngay từ năm 1898. Công văn của Vụ Châu Á-Châu Đại dương của Bộ Ngoại giao Pháp có đoạn viết: “…nhằm ngăn cản một cường quốc khác đứng trên các đảo đó (Hoàng Sa), có lẽ có lợi ích là nên xây dựng một hải đăng trong quần đảo này để khẳng định chủ quyền của chúng ta…”
Từ năm 1920, Hải quân Pháp đã có mặt đều đặn trên các quần đảo để ngăn chặn buôn lậu, một hình thức cảnh sát biển đã hoạt động ở đây.
Khi phải trả lời Công ty phốt phát Bắc Kỳ về việc muốn khai thác quần đảo Hoàng Sa, ngày 17 tháng 12 năm 1928, Toàn quyền Đông Dương viết cho Bộ trưởng thuộc địa và cảnh báo “chứng hoang tưởng tự cao, tự đại cứ tăng lên mãi của chủ nghĩa quốc gia Trung Quốc” và đã tuyên bố rõ ràng: “vậy đã đến lúc chúng ta phải tiến lên trước và khẳng định các quyền dường như đã được công nhận bởi cả các tư liệu lịch sử lẫn các thực tế địa lý”.
Tiến sĩ Sử học Nguyễn Nhã cho biết, để có chỗ dựa vững chắc cho lập trường này của Pháp, ông Toàn quyền đã yêu cầu Khâm sứ Trung Kỳ cung cấp tất cả các tài liệu của hồ sơ: “Chính quyền Pháp đã yêu cầu Khâm sứ ở Trung Kỳ tìm hiểu rõ vấn đề chủ quyền của An Nam ở Hoàng Sa. Qua các tài liệu thì thấy rõ những hành xử chủ quyền từ thời Chúa Nguyễn và nhà Nguyễn. Ông Thân Trọng Huề, nguyên Thượng thư Bộ Binh vào ngày 3.3.1925 cũng đã tuyên bố chủ quyền của An Nam đối với Hoàng Sa là không có gì phải tranh cãi.”
Tháng 11 năm 1929, Thượng nghị sĩ De Monzei viết thư cho Bộ trưởng Thuộc địa rằng: “các quyền của nước An Nam, và do đó của nước Pháp, đối với quần đảo Hoàng Sa dường như không thể tranh cãi từ thế kỷ XVII và các đảo này là một địa điểm tốt nhất cho việc đặt một trạm vô tuyến điện để báo trước các trận bão.”
Trong một văn thư của Quai d’Orsay, Bộ Ngoại giao Pháp do Knobel ký ngày 19/6/1930, một câu hỏi về pháp lý đã được đặt ra: Chủ quyền rõ ràng của An Nam với quần đảo Hoàng Sa liệu có bị mất đi vì không thực thi không? Tác giả đã kết luận là không vì các đảo Hoàng Sa không bị bỏ và do đó không trở thành vô chủ.
Bức thư của Toàn quyền Pasquier, ngày 18/10/1930 khẳng định lại Pháp có chủ quyền đối với quần đảo này. Bức thư chỉ rõ, Pháp có đầy đủ hồ sơ chứng tỏ rằng các quyền không thể tranh cãi của Việt Nam. Trong khi đó, Trung Quốc chỉ thể hiện sự quan tâm của họ từ năm 1909. Cần nói thêm rằng, lập trường của Pháp khi đó phải được hiểu như là “sự thực hiện các quyền chủ quyền đã tồn tại từ trước”. Nói cách khác, người Pháp nhận lấy pháp quyền và trách nhiệm giao nhượng cho họ từ người Việt Nam bị bảo hộ, tiếp tục bảo đảm quyền hạn pháp lý thay mặt cho người Việt Nam.
Ngày 4/2/1932, một công hàm được gửi cho Công sứ quán Trung Quốc nhằm khẳng định các quyền của nước Pháp, trong trường hợp không chấp nhận thì đưa ra trọng tài.
Vào cuối thời kỳ này, Pháp đã khẳng định rõ các quyền của mình trên quần đảo Hoàng Sa bằng các Nghị định của Toàn quyền Đông Dương ngày 15/6/1938 quy định việc thành lập một đại lý hành chính ở quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa Thiên và Nghị định ký ngày 5.5.1939 thành lập hai đại lý hành chính “Cụm Lưỡi Liềm và các đảo phụ cận” và “Cụm An Vĩnh và các đảo phụ cận”.
Những nội dung vừa phân tích chỉ liên quan đến quần đảo Hoàng Sa.
Trường hợp quần đảo Trường Sa đơn giản hơn vì không có bất cứ một yêu sách nào của Trung Quốc trong suốt thời kỳ thuộc địa.
Ngày 23 tháng 9 năm 1930, Pháp thông báo cho các nước thứ ba biết việc nước này chiếm hữu quần đảo Trường Sa. Tháng 4 năm 1933, việc chiếm hữu 6 đảo nhỏ đã được tổ chức trang trọng bằng việc “Công bố quyền thủ đắc do chiếm cứ các đảo do các đơn vị hải quân Pháp thực hiện”. Đáp lại sự khẳng định chủ quyền đó, Trung Quốc im lặng. Cùng năm này, Thống đốc Nam Kỳ là M. Krautheimer đã ký một Nghị định sáp nhập quần đảo Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa,vv…
Theo TS. Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới của Chính phủ, những hành động vừa nêu đã chứng tỏ chính phủ Pháp đã có trách nhiệm trong việc chiếm hữu, khai thác liên tục và có hiệu quả trên vùng biển Đông thuộc chủ quyền của Việt Nam: “Khi đô hộ Việt Nam, Pháp đã đại diện cho Nhà nước Việt Nam về mặt đối ngoại, đã có những hành động, hành vi tiếp tục thực hiện chủ quyền của Nhà nước Việt Nam đối với hai quần đảo và họ đã để lại cho chúng ta những nghị định, quyết định trong việc thành lập các đơn vị hành chính, tổ chức các đơn vị đồn trú, khí tượng, các đài quan trắc, xây dựng các công trình trên đó,vv…”
Bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu: “Đối với quần đảo Hoàng Sa, Pháp chỉ rõ là thừa hưởng giấy chứng thực chủ quyền của các Hoàng đế An Nam. Còn với Trường Sa, Pháp tuyên bố đã phát hiện ra và nhận chủ quyền quần đảo này. Người Trung Quốc chỉ bắt đầu đòi chủ quyền vào đầu thế kỷ XX và đòi hỏi của họ không dựa trên các bằng chứng lịch sử và pháp lý rõ ràng.”
Tính đến thời điểm kết thúc giai đoạn này (1939), Pháp đã thay mặt Việt Nam tiếp tục thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Quốc gia này chưa từng tuyên bố bỏ các đảo, để có thể tạo ra một quyền cho bên thứ ba.
Điều này có nghĩa là chủ quyền đã có từ xa xưa của Việt Nam vẫn luôn được duy trì.
Sau này, mặc dù trong tình hình nước Pháp bị lún sâu vào cuộc chiến tranh Đông Dương và cuộc chiến tranh thế giới thứ hai nhưng Pháp vẫn duy trì cả sự có mặt lẫn yêu sách của mình cho đến khi rút khỏi Việt Nam, để lại cho Việt Nam nhiệm vụ thay thế, góp phần duy trì danh nghĩa chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở cuối thời kỳ thuộc địa (sau chiến tranh thế giới thứ hai).
Tiến sĩ Sử học Nguyễn Nhã |
Trong một bức điện tháng 8.1946, Cao ủy Pháp tại Sài Gòn đã thông báo cho Tùy viên hải quân biết rằng, nước Pháp kiểm soát các đảo Hoàng Sa và bất kỳ tàu thuyền nào dự định ghé vào đấy phải xin phép Cao ủy.
Năm 1947, chủ quyền quần đảo Hoàng Sa là nội dung chính được bàn thảo trong các cuộc thương lượng giữa Pháp với Trung Hoa Dân quốc. Các đối thoại này không có kết quả gì đảng kể nhưng chúng là dịp để nước Pháp khẳng định lại các quyền của mình và đề nghị đưa vụ việc ra trước Trọng tài,vv…
Đáng chú ý, trong các tuyên bố hay các thỏa thuận đa phương, chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa chưa bao giờ được xác định là của Trung Quốc. Nói cách khác, cộng đồng quốc tế chưa bao giờ công nhận hai quần đảo này thuộc về Trung Quốc.
Ngay trước khi kết thúc chiến tranh, qua Tuyên bố Cairo năm 1943, nguyên thủ của các chính phủ Mỹ, Trung Quốc và Anh “thông báo rằng, họ trù định giành lại của Nhật Bản tất cả các đảo ở Thái Bình Dương đã bị nước này cưỡng đoạt hay chiếm đóng từ khi khởi sự Chiến tranh thế giới thứ nhất và trả lại Trung Hoa dân quốc tất cả các lãnh thổ đã bị Nhật cướp của Trung Hoa, như là Mãn Châu, Đài Loan và Bành Hồ và trục xuất Nhật Bản khỏi tất cả các lãnh thổ khác mà Nhật đã chiếm được bằng vũ lực.”
Tất nhiên, các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc các lãnh thổ khác, không thuộc các lãnh thổ của Trung Quốc bị “cướp đoạt”.
Vì Trung Quốc là một bên tham gia bản tuyên cáo này nên bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu cho rằng, việc không nói tới các quần đảo trong phần này của Tuyên cáo Cairo năm 1943 thật đặc biệt. Nó không phải là kết quả của một sự tình cờ. Không có một bảo lưu cũng như một tuyên bố riêng rẽ nào của Trung Quốc về vấn đề lãnh thổ này. Trung Quốc đã buộc phải im lặng vì họ biết rằng, không thể bảo vệ tham vọng không chắc chắn trước các quốc gia khác, trong đó có Pháp, quốc gia không bao giờ công nhận cho Trung Quốc các quyền đối với các đảo Hoàng Sa và Trường Sa và trong nhiều trường hợp đã đề nghị đưa tranh chấp này ra trước tòa án quốc tế.
Thêm nữa, năm 1951, Mỹ và Anh đứng ra triệu tập Hội nghị San Francisco. Năm mươi mốt nước được mời. Hòa ước được ký vào ngày 8/9/1951. Theo các khoản của điều 2 của Hòa ước, Nhật Bản từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa và yêu sách đối với một số lãnh thổ, trong đó có các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Có một sự kiện đáng chú ý liên quan đến hai quần đảo này là, theo yêu cầu của ông Gromyko (đại diện của Liên Xô), trong phiên họp toàn thể trong ngày 5/9/1951, Nhật Bản phải thừa nhận chủ quyền của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đối với một loạt lãnh thổ, trong đó có các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhưng đề xuất này đã bị 46 nước trong số 51 nước có mặt ngày hôm đó bác bỏ.
Ông Đinh Kim Phúc, giảng viên khoa Đông Nam Á, Đại học Mở TP.HCM còn cho biết: “Chính Thủ tướng của Chính phủ Bảo Đại Trần Văn Hữu lúc bấy giờ cũng đã trịnh trọng tuyên bố trước Hội nghị ở San Francisco rằng, để xóa tan những nghi ngờ, những mầm mống xung đột về sau thì Việt Nam tuyên bố Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam như nó đã vốn có từ trước. Lời tuyên bố này của Thủ tướng không bị bất cứ phái đoàn nào tham dự hội nghị phản đối. Lời tuyên bố đó đã được ghi vào biên bản của hội nghị. Đây là những cơ sở luật pháp rất quan trọng mà Trung Quốc không thể phủ nhận.”
Tuyên bố này không gặp sự chống đối hoặc bảo lưu nào của đại diện 51 quốc gia tham dự Hội nghị.
Đặc biệt, ngày 28/4/1952, khi đến lượt mình ký một hòa ước với Nhật, Trung Hoa Dân quốc đã ghi nhận việc từ bỏ mọi quyền của Nhật đối với các đảo nhưng không đưa vào Hiệp ước này bất kỳ yêu sách nào đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nếu như khung cảnh của San Francisco ít thuận tiện để yêu sách của họ đạt được kết quả thì một cuộc đàm phán song phương là rất thuận lợi. Thế nhưng văn bản chỉ đề cập tới sự từ bỏ của Nhật mà không đưa ra một điều gì, sự công nhận nào từ phía Nhật rằng các đảo này thuộc Trung Quốc.
Về phần mình, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, qua phát ngôn của Bộ trưởng Ngoại giao Chu Ân Lai, ngày 15/8/1951 rằng, “các đảo Tây Sa và các đảo Nam Sa bao giờ cũng là lãnh thổ Trung Quốc”. Tuy nhiên, cần phải khẳng định ngay rằng, yêu sách này không phải là sự khẳng định một danh nghĩa lặp lại của thời kỳ trước cũng không phải như một quyền được rút ra từ việc quản lý thực sự.
Việc không khẳng định bất kỳ yêu sách nào với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong dịp có bản Tuyên bố Cairo và việc thừa nhận song phương sự từ bỏ của Nhật Bản mà không đưa ra yêu sách của chính mình cho phép kết luận là, Trung Hoa Dân quốc, nước bảo đảm sự liên tục của Chính phủ Trung Quốc duy nhất trước đó, đã từ bỏ các quyền của mình đối với các hòn đảo tranh chấp.
Nhưng liệu người ta có thể nói rằng, Trung Hoa Dân quốc đã từ bỏ các quyền của mình để Cộng hòa nhân dân Trung Hoa hưởng? Điều này là không thể có trong bối cảnh tuyệt giao giữa hai nhà nước.
Trong thời kỳ này, các đại diện của nước Việt Nam không thể phát biểu với tư cách như một quốc gia. Tuy nhiên, mỗi khi phát biểu, dù vào năm 1925 (nguyên Binh bộ Thượng thư của nhà vua), hay vào năm 1949 (Đổng lý Văn phòng của Bảo Đại) hoặc vào năm 1951 (tại San Francisco), nội dung là giống nhau: Các quần đảo đã thuộc Việt Nam từ lâu đời. Các quần đảo phải tiếp tục là của Việt Nam.
Ý chí đó kết hợp với việc Pháp liên tục thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã góp phần duy trì danh nghĩa chủ quyền rõ ràng của Việt Nam. Vì vậy, việc còn lại là xem xét số phận của các quần đảo này ở thời kỳ sau giai đoạn thuộc địa.
Bài 4: Chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa từ sau Thế chiến thứ 2 đến nay
(VOV) - Nhà nước Việt Nam đã chiếm hữu thực sự hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ít nhất từ thế kỷ XVII và từ đó đã thực hiện thật sự, liên tục và hoà bình chủ quyền đó.
Trong các bài trước của loạt bài “Chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa nhìn từ công pháp quốc tế”, chúng tôi đã đưa ra các bằng chứng rõ ràng rằng, ít nhất từ thế kỷ XVII cho đến hết thời kỳ thuộc địa, Việt Nam đã chiếm hữu, quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa một cách liên tục, hòa bình và phù hợp với các quy định luật pháp quốc tế.
Vấn đề còn lại là sự tiếp nối danh nghĩa chủ quyền đối với hai quần đảo này ở thời kỳ sau giai đoạn thuộc địa đến nay. Đặc biệt khi phía Trung Quốc lập luận rằng, với tuyên bố của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa năm 1958, Việt Nam đã từ bỏ quyền của mình đối với Hoàng Sa và Trường Sa.
Sự thật của vấn đề này như thế nào? Luật pháp quốc tế có thể rút ra từ đó kết luận gì về quan điểm liên tục của danh nghĩa pháp lý?
Sách “Trung Quốc Địa lý học giáo khoa thư”, phát hành năm 1906 nêu ở trang 241 rằng: “điểm cực Nam của Trung Quốc là bờ biển Nhai Châu đảo Quỳnh Châu, ở vĩ tuyến 18 độ 13’ Bắc.” |
Trong bài diễn văn của Chu Ân Lai năm 1951, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã đề cập về chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tuy nhiên, cần phải khẳng định ngay rằng, đối với Trường Sa, Trung Quốc không hề dựa trên bất kỳ một sự chiếm đóng hay quản lý thực sự nào trước đó. Còn đối với Hoàng Sa, nước này đã chiếm đóng thực tế trên một bộ phận vào năm 1956 và được mở rộng ra toàn bộ quần đảo vào năm 1974. Nhưng cũng cần khẳng định ngay rằng, đây là một cuộc chiếm đóng quân sự không được luật pháp quốc tế thừa nhận vì có một nước khác đã có danh nghĩa chủ quyền trước đó. Trong khi đó, đại diện của nước Việt Nam sau khi người Pháp ra đi, Chính phủ Nam Việt Nam luôn khẳng định duy trì chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, với nhiều Nghị định về quản lý các đảo. Một Nghị định về quần đào Hoàng Sa được ký ngày 13/7/1961 thành lập đơn vị hành chính Định Hải, một Nghị định khác ngày 21/10/1969 gộp xã đó với xã Hoa Long,vv…
Có ý thức về chủ quyền từ lâu đời của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, các chính quyền miền Nam Việt Nam đều bảo vệ chủ quyền đó mỗi khi có nước ngoài biểu thị ý đồ tranh giành hay xâm chiếm đảo nào đó trong hai quần đảo.
Ngày 16-6-1956, khi Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, Đài Loan và Cộng hoà Philippines đều nhận quần đảo Trường Sa, là của họ, Bộ Ngoại giao chính quyền Sài Gòn tuyên bố một lần nữa khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo đó.
Ngày 20-4-1971, Chính quyền Sài Gòn khẳng định một lần nữa quần đảo Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam, đáp lại đòi hỏi về chủ quyền của Malaysia đối với một số đảo trong quần đảo đó,vv…
Tuy nhiên, tháng Giêng năm 1974, các lực lượng vũ trang Trung Quốc đã dùng vũ lực chiếm đoạt quần đảo Hoàng Sa. Cần nhắc lại là, Luật quốc tế hiện đại (Hiến chương Liên hợp quốc, điều 2, khoản 4) cấm dùng vũ lực để chống lại toàn vẹn lãnh thổ của một quốc gia. Vì thế, một sự chiếm đóng quân sự sẽ không bao giờ và bằng bất kỳ cách nào có thể chuyển thành một danh nghĩa có giá trị và được công nhận.
Mặt khác, khi đó, Chính phủ Nam Việt Nam cũng đã đưa ra lời phản đối lên Liên hợp quốc, công bố sách trắng về các quần đảo và lên án mạnh mẽ chống lại các hành động bất hợp pháp của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Chính quyền Sài Gòn đã sử dụng diễn đàn tại khóa hợp thứ hai của Hội nghị lần thứ ba của Liên hợp quốc về Luật biển tại Caracas năm 1974 để khẳng định lại các quyền của mình đối với hai quần đảo này.
Việc phân chia lãnh thổ ở vĩ tuyến 17o đã đặt hai quần đảo vào lãnh thổ Nam Việt Nam. Như vậy, chính quyền Nam Việt Nam và chỉ chính quyền này được phát biểu về vấn đề các đảo. Họ đã làm việc này với tư cách là người thừa kế các quyền của nước Pháp về hai quần đảo.
Tuy nhiên, Trung Quốc lại lập luận rằng đã có sự từ bỏ danh nghĩa chủ quyền từ phía Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Đó là tuyên bố của Thủ tướng Việt Nam Dân chủ công hòa, ông Phạm Văn Đồng ngày 14 tháng 9 năm 1958.
Công hàm của ông Phạm Văn Đồng nói như sau: “Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lí rõ, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ghi nhận và tán thành lời tuyên bố ngày 4.9.1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa tôn trọng quyết định đó và sẽ chỉ thị cho các cơ quan nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa trên mặt bể.”
Có thể thấy rằng, tuyên bố của ông Phạm Văn Đồng chỉ có một nghĩa hẹp là công nhận bề rộng lãnh hải của Trung Quốc. Do vậy, thật không đúng khi lập luận rằng, Việt Nam đã “khẳng định lại sự công nhận của họ đối với yêu sách của Trung Quốc” đối với các quần đảo.
Mặt khác, bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu cho rằng, đó không phải là chính phủ về mặt lãnh thổ có thẩm quyền đối với các quần đảo. Vì Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa chỉ thực hiện thẩm quyền của mình ở phía Bắc vĩ tuyến 170. Người ta không thể từ bỏ cái mà người ta không có quyền lực!
Ông Đinh Kim Phúc, giảng viên khoa Đông Nam Á học, Đại học Mở TP.HCM |
Đối với quần đảo Trường Sa, sau tháng 4/1975, quân đội nhân dân Việt Nam thay thế các đội quân của chính quyền Sài Gòn trên các đảo.
Tuy nhiên, tháng 3/1988, Trung Quốc đưa quân đội đến một số bãi ở Trường Sa: một cuộc đụng độ hải quân dẫn đến việc mất một số tàu Việt Nam và một số thủy thủ Việt Nam bị thiệt mạng. Và từ ngày đó, Hải quân Trung Quốc có mặt tại quần đảo này.
Luật quốc tế hiện đại ngăn cấm rất nghiêm ngặt việc chiếm đóng các lãnh thổ bằng vũ lực. Hơn nữa, Việt Nam đã tiếp tục khẳng định chủ quyền của mình đối với toàn bộ hai quần đảo. Yêu sách này là sự liên tục các quyền của Nhà nước phong kiến Việt Nam từ xa xưa, sau đó là của Pháp thay mặt cho nước Việt Nam thuộc địa và đã có sự chiếm đóng thật sự hai quần đảo. Liên tục từ đó đến nay, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng, khẳng định hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam.
Thực tế cho thấy, Trung Quốc chưa khi nào cai quản hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, càng không thể nói rằng Trung Quốc đã thực hiện "chủ quyền" một cách thật sự, liên tục và hoà bình. Vì vậy, chủ quyền của Trung Quốc là vấn đề mà cho đến nay nước này vẫn chưa thể chứng minh được.
Trong khi đó, Nhà nước Việt Nam đã chiếm hữu thực sự hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ít nhất từ thế kỷ XVII và từ đó đã thực hiện thật sự, liên tục và hoà bình chủ quyền đó.
Bài cuối: Con đường đúng đắn nhất để giải quyết tranh chấp chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa
(VOV) - Thương lượng hòa bình chính là con đường đúng đắn nhất để giải quyết cuộc tranh chấp về hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Từ sau chiến tranh thế giới I, quyền sử dụng chiến tranh của Luật pháp quốc tế truyền thống đã bị luật pháp quốc tế hiện đại bác bỏ. Hiến chương Liên hợp quốc đã cấm việc đe doạ dùng vũ lực hay dùng vũ lực trong quan hệ giữa các nước. Liên hợp quốc đã quy định các thành viên của Liên hợp quốc giải quyết các tranh chấp trong quan hệ với nhau bằng các biện pháp hoà bình.
Rõ ràng, thương lượng hòa bình chính là con đường đúng đắn nhất để giải quyết cuộc tranh chấp về hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, Trung Quốc đã ba lần sử dụng vũ lực để xâm chiếm: năm 1956 đối với bộ phận phía Đông của quần đảo Hoàng Sa; năm 1974 đối với bộ phận phía Tây quần đảo Hoàng Sa; và năm 1988 đối với một số đá, bãi ngầm thuộc quần đảo Trường Sa. Chính sách pháo hạm này của Trung Quốc đã vi phạm luật pháp quốc tế và đi ngược lại với xu thế trên thế giới và trong khu vực giải quyết hoà bình mọi tranh chấp giữa các nước.
Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mình đồng thời tôn trọng nguyên tắc không đe doạ dùng vũ lực hay dùng vũ lực để giải quyết tranh chấp, trước sau như một chủ trương giải quyết bằng thương lượng hoà bình mọi tranh chấp giữa hai nước, trong đó có vấn đề hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Mới đây, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng phát biểu trước Quốc hội đã nhấn mạnh lại chủ trương này của Việt Nam: “Lập trường nhất quán của Việt Nam là quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chúng ta có đầy đủ căn cứ lịch sử và pháp lý để khẳng định điều này. Nhưng Việt Nam chúng ta chủ trương đàm phán giải quyết đòi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa bằng biện pháp hòa bình. Chủ trương này của Việt Nam là phù hợp với Hiến chương Liên hiệp quốc, phù hợp với Công ước Liên Hiệp quốc về Luật biển năm 1982, phù hợp với Tuyên bố DOC.”
Chủ trương của chúng ta ở quần đảo Trường Sa là:
Phải nghiêm túc thực hiện Công ước Liên hiệp quốc về Luật biển năm 1982, nghiêm túc thực hiện Tuyên bố ứng xử của các bên liên quan ở biển Đông (DOC) và các nguyên tắc thỏa thuận mà Việt Nam và Trung Quốc vừa ký kết. Cụ thể là, chúng ta yêu cầu các bên giữ nguyên trạng, không có những hành động làm phức tạp thêm, ảnh hưởng đến hòa bình, ổn định. Các tranh chấp phải giải quyết bằng đàm phán hoà bình, không dùng vũ lực và phải cùng đàm phán với tất cả các bên liên quan.”
Trước đó, tuyên bố chung về chuyến thăm chính thức CHND Trung Hoa của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã nêu rõ, “Hai bên đẩy mạnh đàm phán vấn đề trên biển, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được, đồng thời tích cực trao đổi tìm kiếm giải pháp có tính quá độ, tạm thời, không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của mỗi bên, bao gồm việc tích cực nghiên cứu và trao đổi về vấn đề hợp tác cùng phát triển….
Trước khi giải quyết dứt điểm tranh chấp trên biển, hai bên cùng giữ gìn hòa bình, ổn định trên biển Đông, giữ thái độ bình tĩnh và kiềm chế, không áp dụng hành động làm phức tạp hóa hoặc mở rộng thêm tranh chấp, không để các thế lực thù địch phá hoại quan hệ hai Đảng, hai nước, xử lý các vấn đề nảy sinh với thái độ xây dựng, không để ảnh hưởng tới quan hệ hai Đảng, hai nước và hòa bình, ổn định ở biển Đông”.
Việt Nam và Trung Quốc đã ký kết “Thỏa thuận các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết các vấn đề trên biển”. Việc ký kết thỏa thuận này có ý nghĩa chỉ đạo quan trọng đối với việc xử lý và giải quyết thỏa đáng vấn đề trên biển. Hai bên sẽ cùng nỗ lực thực hiện nghiêm chỉnh thỏa thuận này.
TS. Trần Công Trục, nguyên Trưởng Ban Biên giới Chính phủ cho rằng, để thực hiện có hiệu quả nội dung này, yêu cầu đặt ra là các bên trong đàm phán phải thực sự có thiện chí chứ không phải bằng tương quan lực lượng. : “Muốn giải quyết vấn đề này, muốn thúc đẩy quá trình làm tình hình Biển Đông ổn định, tránh xung đột, tránh sự tham gia của các thế lực khác thì chính bản thân các nước phải thiện chí, phải cầu thị. Trong thực tế đàm phán, chúng ta đã có nhiều bài học, đã có những cái khi đưa ra yêu sách không đúng thì phải rút để thúc đẩy đàm phán phát triển.”
Rõ ràng, giải quyết hoà bình cuộc tranh chấp về hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa là đáp ứng nguyện vọng hoà bình của nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc, phù hợp với các nguyên tắc của Luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên hợp quốc, phù hợp với lợi ích của hoà bình, ổn định và hợp tác ở Đông Nam Á, khu vực châu Á - Thái Bình Dương và trên toàn thế giới. Đó là con đường đúng đắn nhất. Dư luận ở Đông Nam Á và trên toàn thế giới chờ đợi sự đáp ứng tích cực của phía Trung Quốc. Là một trong 5 nước uỷ viên thường trực của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, Trung Quốc có nghĩa vụ lớn tôn trọng và thực hiện Hiến chương Liên hợp quốc./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét