Thứ Ba, 11 tháng 9, 2012


“Trung Hoa Dân quốc tối tân địa đồ” không có Hoàng Sa, Trường Sa


Theo ANTĐ - Tấm bản đồ “Trung Hoa dân quốc tối tân địa đồ” (Bản đồ mới nhất và hiện đại nhất của nước Trung Hoa) xác định điểm cực nam của lãnh thổ Trung Hoa là đảo Hải Nam, không hề thấy sự hiện diện của quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. 
Ngay sau khi báo chí đăng bài “Bản đồ Trung Quốc không có Hoàng Sa ở Hải Phòng”, với sự cộng tác, giúp đỡ của nhà sử học Ngô Đăng Lợi, Uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, cựu Chủ tịch Hội KHLS Hải Phòng, chúng tôi đã có mặt tại nhà ông Bùi Viết Đông, người đang lưu giữ cuốn sách có tấm bản đồ nói trên. 


Phóng viên (phải) trao đổi cùng ông Đông (giữa) và nhà sử học 

Ông Bùi Viết Đông, sinh năm 1929, ở số nhà 3, ngõ 46, phố Cấm, phường Gia Viên, quận Ngô Quyền - chủ nhân của cuốn sách chữ Hán có in tấm bản đồ “Trung Hoa dân quốc tối tân địa đồ” cho biết, cuốn sách là di vật của cụ thân sinh Bùi Văn Lộc để lại. 

Theo lời ông Đông, năm 1962, cụ thân sinh của ông về với tiên tổ, gia đình đã định dùng cuốn sách này để làm gối đầu, nhưng nhờ có chút ít “nho nhe” nên ông tìm cách giữ lại làm kỷ niệm. Ông Đông nhớ lại, năm 1947, ông gia nhập quân đội. Trong thời gian đóng quân ở Diễn Châu, Nghệ An, ông được một cụ đồ Nho tặng cuốn Từ điển Hán - Việt và nhờ tự học mà ông có chút võ vẽ về chữ Hán.

Cuốn sách có kích thước: 23,5cmx12,5cm, dày 4cm, đã bị mất bìa, rách vài trang đầu và trang cuối nên chưa xác định được tên sách, nhà xuất bản, năm in ấn, cũng như nơi phát hành. Nội dung cuốn sách đề cập đến rất nhiều lĩnh vực như: y học, thiên văn, phong thuỷ, chiêm tinh, tướng số, khoa học thường thức, nhân vật, lịch sử, văn học, nghệ thuật, địa lý... 

Dựa vào nội dung và qua giám định văn bản học, nhà sử học Ngô Đăng Lợi cho rằng đây là ấn phẩm do Nhà nước Trung Hoa dân quốc ấn hành và đương thời sách được phát hành công khai, rộng rãi, niên đại ra đời sớm nhất là sau khi thành lập nước Trung Hoa dân quốc (năm 1911). Trong sách có bức tranh mô tả về cuộc Cách mạng Tân Hợi (khởi nghĩa Vũ Hán) năm 1911 với lá cờ “Thanh thiên bạch nhật mãn địa hồng” của Quốc Dân Đảng. 

Về thể loại sách, theo nhà sử học Ngô Đăng Lợi thì đây là một cuốn “Liên lịch thông thư” về Lục thập hoa giáp - 60 năm (một dạng lịch văn hoá tổng hợp) vốn được người Trung Quốc phát hành phổ biến và rất ưa chuộng xưa nay. Điều đáng nói đây là tài liệu khoa học, văn hoá chính thống do Nhà nước Trung Hoa dân quốc xuất bản. 


Tấm bản đồ trong cuốn sách


Và điều đáng quan tâm hơn cả là tấm bản đồ “Trung Hoa dân quốc tối tân địa đồ” (Bản đồ mới nhất và hiện đại nhất của nước Trung Hoa) này xác định điểm cực nam của lãnh thổ Trung Hoa là đảo Hải Nam, không hề thấy sự hiện diện của quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Khác xa với những đòi hỏi phi lý của Trung Quốc sau này khi cố tình đưa ra những tấm bản đồ với đường lưỡi bò chín đoạn trên biển Đông. 

Điều này cũng dễ hiểu, sự tranh chấp chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam chỉ là một vấn đề mới được đặt ra trong giai đoạn gần đây. Thật vậy, trong quá khứ không có sự tranh chấp vì Hoàng Sa và Trường Sa được coi đương nhiên là lãnh thổ Việt Nam từ lâu. Sự tranh chấp chỉ xảy ra gần đây vì người ta mỗi ngày mỗi khám phá thấy những nguồn lợi kinh tế cũng như vị trí chiến lược quan trọng của những quần đảo này. 

Được biết, nguồn gốc của sự tranh chấp bắt đầu từ năm 1909, khi Tổng đốc Lưỡng Quảng tuyên bố đơn phương sáp nhập Hoàng Sa vào địa phận Hải Nam. Tuy nhiên, sự việc này không khiến dư luận chú ý mấy vì đây chỉ là hành vi lố bịch của chính quyền địa phương chứ không phải của quốc gia. Thậm chí trên tấm bản đồ “Trung Hoa dân quốc tối tân địa đồ” của Chính phủ Trung Hoa dân quốc xuất bản mới nhất nói trên cũng không thấy xuất hiện đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Và trên thực tế, Trung Quốc cũng không có bất kỳ hành động cụ thể nào để hỗ trợ lời tuyên bố nói trên. Mấy chục năm tiếp theo đó, Trung Quốc chỉ liên hệ với Hoàng Sa trên lý thuyết như vậy thôi. 

Tiếp đó, cũng nhờ sự hỗ trợ của nhà sử học Ngô Đăng Lợi, chúng tôi đã được ông Lạc Tích Thêm, sinh năm 1927, cán bộ tiền khởi nghĩa, ở số 12/1 phố Trần Quang Khải, cho xem cuốn sách có nội dung tương tự cuốn sách trên. Sách có tên “Tụ Bảo Lâm thông thắng” do Hồng Kông xuất bản năm Đinh Hợi - 2007. 

Theo ông Lạc Tích Thêm, cuốn sách (chính xác là cuốn lịch thông thư “Lục thập hoa giáp”), do một người bạn đang sinh sống ở Hoa Kỳ tặng. Điều đáng lưu ý là cuốn sách xuất bản năm 2007, người Trung Quốc đã không cho in tấm bản đồ “Trung Hoa dân quốc tối tân địa đồ” nữa.

Theo An ninh Hải Phòng

Chủ Nhật, 5 tháng 8, 2012

Thư tịch cổ khẳng định Việt Nam cai quản Hoàng Sa


Thư tịch cổ khẳng định Việt Nam cai quản Hoàng Sa

Hàng loạt tài liệu, thư tịch, sắc phong, châu bản... từ thế kỷ 18 đến thời vua Bảo Đại, được công bố trong cuốn Kỷ yếu Hoàng Sa, đều chứng minh sự cai quản liên tục về mặt nhà nước của Việt Nam ở quần đảo này.
Trưng bày bản đồ Trung Quốc không có Hoàng Sa

Chỉ thị của Thái phó Tổng lý quản binh dân chư vụ thượng tướng công nhà Tây Sơn ngày 14/2 năm Thái Đức thứ 9 (1786) với nội dung sai Cai đội Hoàng Sa cưỡi 4 chiếc thuyền câu vượt biển thẳng đến Hoàng Sa cùng các sứ cù lao ngoài biển, tìm nhặt đồ vàng, bạc, đồng và các thứ đại bác, tiểu bác, đồi mồi, vỏ hải ba chở về kinh, tập trung nộp theo lệ.
Văn bản phát hiện ở làng Mỹ Lợi, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên - Huế với nội dung xử lý vụ kiện giữa phường Mỹ Toàn (nay là làng Mỹ Lợi, xã Vinh Mỹ) và phường An Bằng (xã Vinh An) về việc tranh chấp một chiếc vỏ thuyền của đội Hoàng Sa dạt vào bờ biển giáp ranh giữa hai phường này. Văn bản cho thấy, năm 1760, dưới thời vua Lê Hiển Tông (1740 - 1786) đã có cai đội Hoàng Sa chuyên trách quản lý và khai thác sản vật ở quần đảo Hoàng Sa. Bản gốc bằng chữ Hán được viết trên dấy dó.
Tờ lệnh của họ Đặng ở đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) gồm bốn trang, dài 36cm, rộng 24cm và còn nguyên vẹn, ghi rõ ngày 15/4 năm Minh Mạng thứ 15 (1834), quan tỉnh Quảng Ngãi phái đội thuyền ba chiếc ra canh giữ đảo Hoàng Sa. Theo giới nghiên cứu, tuy chỉ vỏn vẹn vài trang nhưng tờ lệnh này chứa đựng nhiều thông tin quý, nêu rõ danh tính, quê quán của từng binh thuyền vâng lệnh triều đình đi lính Hoàng Sa, không chỉ riêng huyện đảo Lý Sơn mà còn ở các vùng quê ven biển khác tại Quảng Ngãi.
Mộc bản triều Nguyễn trong sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 165 năm Minh Mạng thứ 17 (1836) ghi lại Bộ công tâu lên triều đình nội dung: "Cương giới mặt biển ta có xứ Hoàng Sa rất hiểm yếu".
Một trong hai bản tấu của Thủ ngự Đà Nẵng ngày 27/6 năm Minh Mạng thứ 11 (1830) gửi đến triều đình với nội dung vừa cứu hộ thành công thuyền buôn của Pháp đụng phải đá ngầm tại phía tây Hoàng Sa (xứ Cát Vàng).
Tấu của Bộ Công ngày 13/7 năm Minh Mạng thứ 18 (1837) có nội dung: Lần đi Hoàng Sa này trở về, trừ bọn Kinh phái Thủy sư Suất đội Phạm Văn Biện, tỉnh phải hướng dẫn Võ Văn Hùng, Phạm Văn Sanh, đà công Lưu Đức Trực...
Tấu của Bộ Công ngày 21/6 năm Minh Mạng thứ 19 (1838) về việc thám sát và vẽ bản đồ ở Hoàng Sa. Bản tấu viết rằng những người được phái đi Hoàng Sa do Bộ ty Đỗ Mậu Thưởng và Thị vệ Lê Trọng Ba dẫn đầu và hướng dẫn viên Vũ Văn Hùng. Ông Hùng cho biết Hoàng Sa có tất cả 4 nơi cần khảo sát thì lần này đi được 3 nơi.
Chỉ dụ số 10, ngày 29/2/1938 của vua Bảo Đại sáp nhập quần đảo Hoàng Sa từ tỉnh Quảng Ngãi vào tỉnh Thừa Thiên về phương diện hành chính.
Tờ châu bản có chữ phê chuẩn bằng mực đỏ của vua Bảo Đại ngày 27/12, năm Bảo Đại thứ 13, tức ngày 03/2/1939 khẳng định sự tiếp tục quản lý hành chính cũng như việc đưa binh lính ra Hoàng Sa.
Nguyễn Đông

Thứ Bảy, 4 tháng 8, 2012

Bản đồ cổ VN khẳng định chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa hàng trăm năm trước


Bản đồ cổ VN khẳng định chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa hàng trăm năm trước

(Dân trí) - Hàng chục tấm bản đồ và những tư liệu quý khẳng định chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam, do các triều đại Việt Nam, người Pháp ấn hành hàng trăm năm trước đang được trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia, thu hút rất đông người đến xem.

Bản đồ cổ Việt Nam khẳng định chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa hàng trăm năm trước
Bản đồ Đại Nam nhất thống toàn đồ, triều Minh Mạng (1820-1841). Trên bản đồ có ghi rõ tên Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam.
 
Bản đồ cổ Việt Nam khẳng định chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa hàng trăm năm trước
Bản đồ vùng Viễn Đông, Brion de la Tour 1774. Trên bản đồ vẽ quần đảo Paracel (Hoàng Sa) thuộc lãnh thổ Đằng trong, Đại Việt.
 
Rất nhiều người dân chăm chú xe bản đồ cổ này
Rất nhiều người dân chăm chú xe bản đồ cổ này

Một số người còn ghi lại hình ảnh bản đồ có cách đây hàng trăm năm
Một số người còn ghi lại hình ảnh bản đồ có cách đây hàng trăm năm
 
Một số người còn ghi lại hình ảnh bản đồ có cách đây hàng trăm năm
Bản đồ An Nam đại quốc họa đồ, Jean Louis Taber, 1834. Trên bản đồ vẽ quần đảo Paracel seu Cát Vàng (Hoàng Sa) thuộc lãnh thổ Việt Nam.
 
Một số người còn ghi lại hình ảnh bản đồ có cách đây hàng trăm năm
Nhà nghiên cứu chỉ rõ quần đảo Paracel seu Cát Vàng (Hoàng Sa) thuộc lãnh thổ Việt Nam trong bản đồ An Nam đại quốc họa đồ
 
Một số người còn ghi lại hình ảnh bản đồ có cách đây hàng trăm năm
Bản đồ các đài khí tượng Đông Dương, năm 1940. Đài ở Hoàng Sa và Trường Sa là hai đài khí tượng cấp quang trọng nhất.
 
Một số người còn ghi lại hình ảnh bản đồ có cách đây hàng trăm năm
Bốn trang trong Phủ Biên tạp lục, Lê Quý Đôn, 1776, chép về việc thành lập và tổ chức hoạt động cả Hải đội Hoàng Sa, Hải đội Bắc Hải

Mô hình ghe của Hải đội Hoàng Sa
Mô hình ghe của Hải đội Hoàng Sa

Ảnh sức sống trên quần đảo Trường Sa, Việt Nam được trưng bày tại bảo tàng
Ảnh sức sống trên quần đảo Trường Sa, Việt Nam được trưng bày tại bảo tàng
 
Ảnh sức sống trên quần đảo Trường Sa, Việt Nam được trưng bày tại bảo tàng
Đến triển lãm này, người dân còn được xem “Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ”, tấm bản đồ cổ hơn 100 tuổi, lập dưới thời nhà Thanh (Trung Quốc), xuất bản năm 1904 được trưng bày đón du khách...
 
Ảnh sức sống trên quần đảo Trường Sa, Việt Nam được trưng bày tại bảo tàng
“Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ”, Trung Quốc xuất bản năm 1904 ghi rõ cực nam nước này là đảo Hải Nam, không hề có Hoàng Sa, Trường Sa.

Ảnh sức sống trên quần đảo Trường Sa, Việt Nam được trưng bày tại bảo tàng

Ảnh sức sống trên quần đảo Trường Sa, Việt Nam được trưng bày tại bảo tàng
Các tấm bản đồ cổ về hàng hải Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, Pieter, 1660 cũng được trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia.

Quang Phong

Thứ Ba, 31 tháng 7, 2012

Xem xét quá trình quy thuộc Nam Hải (Biển Đông) qua các bản đồ từ cuối đời nhà Thanh đến (Trung Hoa) Dân quốc (Phần 1)


 Xem xét quá trình quy thuộc Nam Hải (Biển Đông) qua các bản đồ từ cuối đời nhà Thanh đến (Trung Hoa) Dân quốc (Phần 1) *

Tác giả: Nibelungen Schnecke Weinstock (tạm để tên tiếng Đức; tên theo bản gốc: 尼伯龙根·蜗藤)
Người dịch:  Quốc Thanh
Trước thế kỉ 20
1)  Trước tiên xin chia sẻ một tấm bản đồ thời Đại Thanh năm 1760. Tấm “Thanh Đại Nhất Thống Địa Đồ” này về cơ bản thuyết minh cương vực thời kì Đại Thanh. Theo hiển thị trên bản đồ thì cương giới phía nam của Trung Quốc kết thúc ở đảo Hải Nam.
2)  Đại Thanh Nhất Thống Thiên Hạ Toàn đồ (năm 1818) do Chu Tích Linh vẽ. (Từ “Địa đồ Trung Quốc”, Thư viện Đại học Hongkong, năm 2003). Bản đồ này là tấm bản đồ về cương giới quốc gia theo ý nghĩa hiện đại hiếm gặp trong số các bản đồ cũ của Trung Quốc. Toàn bộ khu vực sở thuộc và đường biên giới của Trung Quốc được viền màu đỏ. Thế là có thể nhìn trên tấm bản đồ này rất rõ đâu là lãnh thổ Trung Quốc, đâu không phải là lãnh thổ Trung Quốc. Kim Môn, Hạ Môn và đảo Hải Nam đều dùng màu đỏ vẽ liền với đại lục, còn Đài Loan và quần đảo Đan Sơn thì được khoanh tròn riêng bằng màu đỏ, để chứng tỏ là một phần của Trung Quốc. Trên bản đồ có xuất hiện hai cái tên Vạn Lý Trường Sa (万里长沙; tức Nam Sa theo cách gọi hiện giờ của Trung Quốc -ND) và Thiên Lý Thạch Đường (千里石塘; tức Tây Sa theo cách gọi hiện giờ của Trung Quốc -ND), nhưng những địa danh này cùng với Johor, Mãn Thích Gia (Anh: Strait of Malacca; Malai: Selat Melaka) vàSrivijaya…đều nằm ngoài cương giới lãnh thổ Trung Quốc. Tất nhiên, chúng ta còn có thể nhìn thấy được cả những hòn đảo nhỏ ở ngoài khơi Quảng Đông như Nhai Sơn và Hổ Đầu Môn…không nằm ở ngoài cương giới lãnh thổ Trung Quốc.
3)  Hải Quốc Đồ Chí (năm 1852)
“Hải Quốc Đồ Chí” là cuốn thư tịch địa lí thế giới do Ngụy Nguyên biên soạn. Trong cách diên đồ của các nước Đông Nam Dương (biển Đông Nam) ở sách này có xuất hiện các địa danh Vạn Lý Trường Sa  và Thiên Lý Thạch Đường. Một phần cuốn sách đã dẫn tấm bản đồ này làm chứng cứ cho chủ quyền của Trung Quốc đối với Tây Sa và Nam Sa. Luận cứ này không thể xác lập được, bởi vì: 1) Tên bản đồ chỉ chính xác đây là bản đồ Đông Nam Á;  2) Trên bản đồ ngoài Vạn Lý Trường Sa và Thiên Lý Thạch Đường còn có rất nhiều nước Đông Nam Á; 3) Trên bản đồ, hai nơi này bị nhiều nước Đông Nam Á vây quanh, thực sự là không nhìn thấy trên bản đồ có bất cứ kí hiệu gì mang ý nghĩa hai nơi này là thuộc Trung Quốc. Cho nên, tấm bản đồ này không hề nói rõ vị trí của Vạn Lý Trường Sa và Thiên Lý Thạch Đường.
4)  Quảng Đông Đồ năm 1866
Chính phủ Dân quốc luôn tuyên bố xét về lịch sử, các quần đảo ở Nam Hải là một phần của Quảng Đông. Vì thế, bản đồ Quảng Đông cũng có sự trợ giúp rất lớn trong việc biện minh sự thực. Quảng Đông Đồ năm 1866 là tập bản đồ chi tiết về khu vực Quảng Đông. Tập bản đồ này hiển thị đất thuộc Quảng Đông chỉ bao gồm Hải Nam và các đảo ngoài khơi Quảng Đông, thậm chí còn không bao gồm cả Đông Sa.
Hình dạng lãnh thổ Trung Quốc trên các bản đồ Trung Quốc trước năm 1900 về đại thể là chuẩn xác, còn các bản đồ ngoài biển thì hoàn toàn không có cách gì để so đọ được theo cách nhìn hiện đại. Lấy Hải Ngoại Đồ Chí của Ngụy Nguyên làm ví dụ, hầu như tất cả các nước và khu vực ở Đông Nam Á đều được vẽ không chuẩn xác. Điều này phản ánh Trung Quốc còn thiếu sự hiểu biết về Nam Hải. Sự hiểu biết về địa lí Nam Hải của Trung Quốc còn kém xa so với các nước Phương Tây. Khoảng tới thế kỉ 20 (không rõ năm cụ thể), các bản đồ liên quan tới Nam Hải do Trung Quốc xuất bản mới ăn nhập được với các nước, mới đi vào “hiện đại hóa”, đương nhiên là phỏng theo các thư tịch tư liệu do các nước nghiên cứu.
Thế kỉ 20
5)  Đại Thanh Đế Quốc Toàn Đồ (năm 1905). Bản đồ này được lựa chọn từ “Trung Quốc Cổ Địa Đồ Trân Tập”, Nhà xuất bản bản đồ Tây An, năm 1995. Cương giới phía Nam của Trung Quốc trên bản đồ chỉ tới đảo Hải Nam.
6)  Năm 1908, “Trung Quốc Cận Thế Dư Địa Đồ” do La Nhữ Nam biên soạn, đây là một bộ trước tác địa lí học đồ sộ của Trung gồm 8 tập 23 quyển. Có mấy điểm cần đặc biệt chú ý: 1) Trong bộ sách dành phần lớn chú trọng đề cập tới việc bảo vệ vùng biển của Trung Quốc, vì thế tác giả không được bỏ qua các nhân vật bảo vệ vùng biển; 2) Tác giả tỏ ra hiểu biết nhiều về địa lí Quảng Đông hơn; 3) Tác giả dành một phần lớn để giới thiệu địa lí học (Phương Tây), hiển nhiên là với sự góp sức của một số người nhất định có vốn học thuật hiện đại. Văn tự trong sách này viết rõ rằng cương giới phía nam của Trung Quốc là ở đầu mút nam đảo Hải Nam, dù là trên Trung Quốc Toàn Đồ hay trên Quảng Đông Địa Đồ cũng đều không tìm thấy có các đảo ở Nam Hải.
7)  Nhị Thập Thế Kỉ Trung Ngoại Đại Địa Đồ (năm 1908). Trong tập bản đồ này, cương giới phía nam của Trung Quốc cũng chỉ tới đầu mút nam đảo Hải Nam. Ở bản đồ Châu Á trong tập bản đồ này hoàn toàn không thấy có đánh dấu các đảo ở Nam Hải. Còn phần lớn các bản đồ trên thế giới cùng thời kì ấy đều có đánh dấu các đảo ở Nam Hải nằm trong đó. Trái lại, quần đảo Andaman của Ấn Độ và quần đảo Natuna của Nam Hải lại đều có xuất hiện trên các bản đồ này. Tập bản đồ này gồm 2 quyền Thượng và Hạ, quyển Hạ là phần bản đồ thế giới, nhưng đáng tiếc là tôi không tìm được, nếu không thì sẽ có thể biết được Trung Quốc khi ấy đã vẽ Đông Nam Á ra sao.
8)  Năm 1909, Quảng Đông Dư Địa Toàn Đồ. Tấm bản đồ này hết sức quan trọng. Đây là tấm bản đồ vẽ Tây Sa và Đông Sa vào trong lãnh thổ Trung Quốc sớm nhất trong số những bản đồ vào cuối triều Thanh mà tôi được thấy. Năm 1909, Lý Chuẩn tuyên bố chủ quyền đối với Tây Sa, đây là lần đầu tiên Trung Quốc tuyên bố và thừa hành chủ quyền đối với Tây Sa kể từ thời cận đại. Bản đồ này phản ánh đầy đủ tiến trình lịch sử khi ấy. Trên bản đồ còn có cả Đông Sa. Đáng chú ý là, mặc dù tấm bản đồ này phản ánh ước muốn của Trung Quốc đối với lãnh thổ Nam Hải, nhưng trên bản đồ lại không thấy có các quần đảo Trung Sa và Nam Sa, điều này nói lên hai quần đảo này khi ấy vẫn chưa đi vào tầm ngắm của đế quốc Đại Thanh.
Xin tóm tắt, xét từ các bản đồ mà tôi đã sưu tập được, trước năm 1909, Trung Quốc không vẽ quần đảo Nam Sa với danh nghĩa là một phần của Trung Quốc hoặc tỉnh Quảng Đông vào trong bản đồ Trung Quốc. Năm 1909, sau chuyến đi tới Tây Sa của Lý Chuẩn, Tây Sa mới bắt đầu được chính quyền Trung Quốc và trong dân gian coi là một phần của Trung Quốc. Còn Nam Sa và Trung Sa thì vẫn chưa được bất cứ một bản đồ nào đưa vào trong lãnh thổ của Trung Quốc.
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2012

'Bản đồ cổ đã đập tan những luận điệu của Trung Quốc'


'Bản đồ cổ đã đập tan những luận điệu của Trung Quốc'

Những tấm bản đồ như “Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ” đã vạch rõ, đập lại luận điệu mà Trung Quốc vẫn rêu rao, tạo lợi thế cho Việt Nam nếu đưa vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa ra đàm phán hoặc lên tòa án quốc tế.
Bản đồ Trung Quốc ghi đảo Hải Nam là cực nam8 bản đồ cổ chứng minh Trung Quốc không có Hoàng Sa

Là người từng bảo vệ thành công luận án tiến sĩ về luật biển tại Bỉ, ông Nguyễn Toàn Thắng, cho rằng, những tấm bản đồ cổ như Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ hoàn toàn có thể sử dụng được trong quá trình đàm phán với Trung Quốc. Đây là một chứng lý có lợi cho Việt Nam khi đặt trong hồ sơ đến cơ quan tài phán quốc tế.
Tuy nhiên, tiến sĩ Thắng lưu ý, đây chỉ là một loại bằng chứng và giá trị không phải ở tính riêng rẽ. Muốn khẳng định và thuyết phục được về chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa tại cơ quan tài phán quốc tế, thì Việt Nam phải có hồ sơ đầy đủ bằng chứng về pháp lý, lịch sử, tài liệu cho đến việc chiếm hữu trong thực tế. Các loại bằng chứng này bổ trợ cho nhau thì mới có giá trị.
Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ ấn hành năm 1904 với cực nam của Trung Quốc là đảo Hải Nam. Ảnh: N.H.
“Việt Nam phải chứng minh được toàn bộ quá trình lịch sử là mình chiếm hữu như thế nào, thực thi việc quản lý ra sao, có liên tục không... Không thể dựa vào một bằng chứng mà khẳng định ngay được”, ông Thắng phân tích.
Chuyên gia ngành luật quốc tế này cho hay, để chứng minh chủ quyền đối với các quần đảo trên Biển Đông, Trung Quốc cũng có những cách làm riêng rất đáng lưu tâm. Đơn cử như việc thay vì trưng ra các bản đồ tương tự như Việt Nam tìm thấy thì Trung Quốc đẩy mạnh tìm kiếm các di vật khảo cổ ở Hoàng Sa như một cách để phản hồi. Dù cách làm này không đi sâu về mặt pháp lý (và thậm chí không loại trừ việc phát hiện di vật là “ngụy tạo”) song, tiến sĩ Thắng cho rằng, nó có tác dụng về mặt tuyên truyền kiểu như phổ cập thông tin "xuất hiện, có mặt trên thực địa trước". Dư luận vì thế sẽ cho rằng Trung Quốc cũng có lý.
“Đó là một 'chiêu' tuyên truyền để lấy dư luận, còn giá trị pháp lý thì phải tranh luận chứ không khẳng định ngay được. Trong thực tế, bên nào chứng minh được việc quản lý nhà nước trong thời gian dài hơn, thuyết phục hơn thì đấy là bằng chứng quan trọng để xem xét”, tiến sĩ Thắng nói.
Chia sẻ quan điểm với tiến sĩ Nguyễn Toàn Thắng, ông Hoàng Việt (Quỹ nghiên cứu Biển Đông) cho rằng, với các tấm bản đồ cổ được công bố trong thời gian qua để đưa ra tòa án quốc tế là một câu chuyện dài. Đi kèm với các bản đồ đó còn cần rất nhiều chứng lý khác, đặc biệt là về việc thực thi chủ quyền.
Tuy nhiên, những bằng chứng như Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ đã góp phần vạch rõ, đập lại luận điệu mà từ trước tới nay Trung Quốc vẫn rêu rao rằng, mình là người đầu tiên phát hiện, nghiên cứu, đo vẽ về Hoàng Sa, Trường Sa. “Trung Quốc đến đó lúc nào, đến bằng cái gì, Có ghi lại đâu? Theo logic, khi anh đã đưa ra bằng chứng không chính xác, làm sao anh kết luận được?”, ông Việt phân tích.
Trong khi đó, trong An Nam đại quốc họa đồ ấn hành từ đầu thế kỷ 19 đã có xác định vị trí quần đảo Hoàng Sa với tên gọi Paracel - Cát Vàng (mũi tên chỉ). Ảnh: Tư liệu.
Theo ông, qua các triều đại Trung Quốc, có rất nhiều bản đồ được lưu lại nhưng tất cả bản đồ trước năm 1909 đều không nói tới Hoàng Sa, Trường Sa. Không chỉ thế, từ chính sử cho tới địa phương chí cũng không nhắc tới hai quần đảo này. Những cái Trung Quốc rêu rao gần đây chỉ là “ngụy tạo, bịa đặt”. Trong hoàn cảnh đó, những bản đồ cổ được công bố trong thời gian qua là lợi thế để làm cho dư luận, làm cho thế giới hiểu đúng về chủ quyền biển, đảo của Việt Nam.
Theo học giả Dương Danh Dy, bản đồ vừa được tiến sĩ Mai Ngọc Hồng công bố, trao tặng bảo tàng lịch sử Quốc gia là một “bằng chứng thật”. Nó ngay lập tức khiến dư luận Trung Quốc lúng túng. Tuy nhiên, ông Dy lưu ý, có những giai đoạn dài, Việt Nam đã buông lỏng trận địa truyền thông về chủ quyền biển đảo, để mặc Trung Quốc lũng đoạn.
Nguyễn Hưng

Thứ Hai, 30 tháng 7, 2012


1173. Xem xét quá trình quy thuộc Nam Hải (Biển Đông) qua các bản đồ từ cuối đời nhà Thanh đến Trung Hoa Dân quốc

Posted by basamnews on 30/07/2012
Đôi lời: Cám ơn độc giả S.T.H. đã tìm thấy, thông báo tài liệu quý giá này và độc giả N.B.N. đã kịp thời dịch ngay trong đêm qua để gửi tới đông đảo bạn đọc.
Hy vọng sẽ có thêm nhiều phát hiện khác tương tự từ nhân dân ta, khi mà “đảng, nhà nước lo” không xuể, trong khi đó, dù đã có nhiều bằng cớ thuận lợi cho đấu tranh pháp lý để giành lại, bảo vệ chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa, Biển Đông, nhưng dường như vẫn không “lo” tới việc đưa ra Tòa án Quốc tế.
(Chủ trang là một người nước ngoài, không phải Trung Quốc, tên theo âm Hán Việt là Nê Bá Long Cân. Ốc Đằng)

Xem xét quá trình quy thuộc Nam Hải (Biển Đông) qua các bản đồ từ cuối đời nhà Thanh đến (Trung Hoa) Dân quốc 

Đăng ngày 1/5/2012, trong tập Nghiên cứu Nam Hải
Từ năm 1911 đến năm 1935
Năm 1911, thành lập Dân Quốc, lịch sử Trung Quốc mở ra trang mới. Năm đầu cơ bản vẫn vẽ theo hệ bản đồ thời cuối nhà Thanh.
(9) Trung Quốc tân hưng đồ (1915). Bản đồ này xuất bản ở Thương Hải, trong đó cực nam của Trung Quốc vẫn chỉ đến đảo Hải Nam, giống như tình hình năm 1908.
Bản đồ này là tái bản, có thể nghĩ rằng bản đầu tiên của nó cũng như vậy. Qua đó có thể thấy, mặc dù năm 1909 Lý Chuẩn đã tuyên bố chủ quyền khi đến Tây Sa [Hoàng Sa], nhưng khá nhiều người biên vẽ bản đồ, nhất là những người không phải dân Quảng Đông vẫn không hề coi Tây Sa là thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Nên cái gọi là “Tây Sa là một bộ phận lãnh thổ của Trung Quốc” chưa hề trở thành nhận thức chung của xã hội.
(10) Trung Quốc tân hưng đồ (1917). Cho đến năm 1917, đến tấm bản đồ Trung Quốc tân hưng thứ 3, tình hình vẫn chưa thay đổi. Cực nam của Trung Quốc vẫn chỉ là đảo Hải Nam.
(11) Trung Hoa dân quốc tân khu vực đồ (1917). Điều đáng nói rõ ở tấm bản đồ này là chữ “tân” (mới). Quần đảo Tây Sa bị quy nạp vào cương vực của Trung Quốc. Bản đồ này là tấm bản đồ sớm nhất mà tôi từng thấy dưới hình thức vẽ thêm một khung vuông phụ trong bản đồ toàn quốc. Chú ý, lúc này thuộc địa Nam Hải [Biển Đông] chỉ có “Tây Sa” và “Đông Sa”. “Trung Sa” [một phần của Trường Sa] chưa hề bị bao vẽ vào lãnh thổ Trung Quốc.
(12) Trung Quốc địa lý các duyên đồ. Bản đồ này xuất bản năm 1922, là một tấm trong tập sách Bản đồ lịch sử, nhưng lại dùng bản đồ Dân quốc năm 1918, “Tây Sa” vẫn được vẽ trong khung vuông phụ trong địa đồ toàn quốc. Có thể thấy hình thức này đã bắt đầu phổ cập. Và vẫn như bản đồ 1917, chỉ có Tây Sa và Đông Sa là trong bản đồ Trung Quốc.
(13) Trung Quốc tân hình thế đồ (1922). Đây là một phần trong cuốn tập hợp bản đồ sách giáo khoa địa lý tham khảo, về độ chính xác thì không được như bản đồ ở phần trên, nhưng lại nói rõ hơn phạm vi bản đồ Trung Quốc trong con mắt của chủ lưu xã hội. Nó cũng như hai tấm bản đồ nói trên, cực nam của Trung Quốc vẫn chỉ đến “Tây Sa”. “Trung Sa” và “Đông Sa” vẫn chưa có.
(14) Trung Hoa triết loại phân tỉnh đồ (1931). Thời gian đến năm 1931 bản đồ Trung Quốc vẫn chưa có thay đổi, cực nam vẫn ở Tây Sa.
(15) Trung Hoa dân quốc tân địa đồ (Thân báo) (1934). Để kỷ niệm 60 năm Thân báo ra đời, Thân báo tổ chức một loạt các chuyên gia về địa lý (gồm có Đinh Văn Giang, Weng Wen Hao, Tăng Thế Anh) dùng nhân lực và vật lực lớn để biên soạn bản đồ Dân Quốc có tính chính thống nhất. Tấm bản đồ này được in ấn trên 8 định dạng là một sáng tạo mới của Trung Quốc  đương thời. Sau đó, do nguyên nhân giá cả và phạm vi ứng dụng lớn nên đã xuất bản phổ cập với 16 định dạng. Trong tập bản đồ này, bản đồ của Trung Quốc vẫn chỉ bao gồm “Tây Sa” và “Đông Sa” mặc dù lúc này đã xảy ra sự kiện nước Pháp tuyên bố chủ quyền 9 đảo ở “Nam Sa” [Trường Sa] (1933), Thân báo đã tỏ thái độ quyết liệt khi thông báo sự kiện này, nhưng lại rất hài hước là ngay trong tập bản đồ do Thân báo chủ biên vẫn chưa vẽ “Nam Sa” vào trong lãnh thổ Trung Quốc.
Tóm lại, từ khi bắt đầu của (Trung Hoa) Dân quốc cho đến trước năm 1917, quần đảo “Tây Sa” vẫn chưa phải là nhận thức chung trong bản đồ Trung Quốc. Sau năm 1917, quẩn đảo “Tây Sa” mới nằm vào tuyệt đại bộ phận bản đồ của Trung Quốc. Trong thời gian từ năm 1917 đến năm 1934, cương vực trong bản đồ Trung Quốc vẫn chỉ đến quần đảo “Tây Sa”. “Trung Sa” và “Nam Sa” vẫn không hề là lãnh thổ Trung Quốc được chính Trung Quốc vẽ trong tuyệt đại bộ phận bản đồ của Trung Quốc.
CTV Quốc Thanh bổ sung:
Tác giả của trang này là người có tên bằng tiếng Đức là Nibelungen Schnecke Weinstock.
Bài vừa đăng là nằm trong chuyên đề riêng về Nam Hải của trang này.

一言难尽话南海

KHÔNG THỂ NÓI HẾT VỀ NAM HẢI VỎN VẸN TRONG MỘT LỜI

Bao gồm những nội dung chính sau:
KHẢO VỀ LỊCH SỬ VÀ CHỦ QUYỀN NAM HẢI
Lời nói đầu
Lãnh thổ Nam hải và tranh chấp lãnh hải luôn là một vấn đề phức tạp nhất trên thế giới. Do nguyên nhân về địa -lịch sử, sự quy thuộc của các đảo ở Nam Hải hết sức mơ hồ. Các nước và khu vực bị lôi kéo vào tranh chấp đã có tới 6 nước 7 phương, mà những nước này từ thế kỉ 19-thế kỉ 20 đều đã trải qua vấn đề chuyển dời chính phủ phức tạp, điều này khiến cho vấn đề trở nên phức tạp hơn. Từ sau thập kỉ 70 của thế kỉ 20, do phát hiện được mỏ dầu ở Nam Hải mà sự tranh chấp lãnh thổ đã mở rộng thành sự tranh chấp tài nguyên và lợi ích, sự tranh chấp ngày thêm quyết liệt. Ngoài ra, bản thân Nam Hải lại là một trong những con đường biển quốc tế nhộn nhịp nhất, ngoài việc trực tiếp động chạm đến các nước và khu vực có tranh chấp ra, sự ổn định ở Nam Hải còn liên quan tới cả lợi ích của các nước khác (như các nước ùng Châu Á Thái Bình Dương Nhật, Mỹ, Ôxtrâylia, Indonesia và Singgapore…). Do nhân tố đa phương diện này mà Nam Hải luôn là điểm nóng trong tranh chấp quốc tế. 
Là một người dân bình thường, chuyện quốc gia đại sự đâu phải đến lượt mình, tôi cũng không muốn làm một người có giấy phép cư trú tạm thời  chỉ điểm giang sơn ở dưới tầng hầm Bắc Kinh. Nhưn là một con mọt sách rất khoái món lịch sử, bao giờ tôi cũng cố sức làm cho rõ xem rốt cuộc về lịch sử đã xảy ra những chuyện gì. Và thế là bài này ra đời.
1.  Địa li cơ bản của Nam Hải và tranh chấp
 
2.  Về lịch sử kế thừa chủ quyền của các bên
 
3.  Nam Hải từ đời Hán đến cuối Ngũ đại
 
4.   Nam Hải từ đời Tống đến đầu đời Thanh
 
5.  Nam Hải giữa và cuối thế kỉ 19
 
6.  Nam Hải trước Đại chiến thế giới II
 
7.  Nam Hải thời Đại chiến thế giới II và thời kì đầu sau Đại chiến thế giới II
 
8.  Nam Hải từ năm 1956-1988
 
9.  Nam Hải sau năm 1988
 
10.  Vấn đề chủ quyền của các đảo ở Nam Hải
 
11.  Vấn đề Nam Hải và chính trị quốc tế
 
12.  Luận về tài nguyên Nam Hải
 
13.  Lối ra cho vấn đề Nam Hải