CỤ HUỲNH VỚI VẤN ĐỀ CHỦ QUYỀN HOÀNG SA CỦA VIỆT NAM
Huỳnh Thúc Kháng với vấn đề chủ quyền Hoàng Sa của Việt Nam
Đã 65 năm ngày Cụ Huỳnh Thúc Kháng yên nghỉ trên núi Thiên Ấn, Quảng Ngãi (21/4/1947), nhưng mỗi lần nhớ đến Cụ
chúng ta không khỏi bồi hồi xúc động hồi tưởng về những trang viết của Cụ trên báo Tiếng Dân về chủ quyền
quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam mà cụ là chủ bút.
chúng ta không khỏi bồi hồi xúc động hồi tưởng về những trang viết của Cụ trên báo Tiếng Dân về chủ quyền
quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam mà cụ là chủ bút.
Trong đó Cụ đặc biệt chú ý đến các luận cứ khoa học để chứng minh chủ quyền quần đảo Hoàng Sa của đất nước ta.
.
Cụ Huỳnh Thúc Kháng
Từ giữa những năm 1938 trở đi, việc tranh chấp quần đảo Hoàng Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa) giữa Pháp và Nhật
hết sức gay gắt. Tháng 3/1939, Nhật chiếm quần đảo Hoàng Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam đặt dưới quyền cai trị
của Pháp. Từ ngày 12/7/1938, Tiếng Dân bắt đầu đăng một loạt bài về quần đảo Hoàng Sa (Tây Sa), trong đó có bài
nghiên cứu, bình luận dài, rất công phu và có giá trị: Dấu tích đảo Tây Sa (Paracels) trên lịch sử Việt Nam ta và giá trị
bản "Phủ Biên Tạp lục" (Tiếng Dân, số 1284, 23/7/1938) do Sử Bình Tử tức Huỳnh Thúc Kháng viết.
hết sức gay gắt. Tháng 3/1939, Nhật chiếm quần đảo Hoàng Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam đặt dưới quyền cai trị
của Pháp. Từ ngày 12/7/1938, Tiếng Dân bắt đầu đăng một loạt bài về quần đảo Hoàng Sa (Tây Sa), trong đó có bài
nghiên cứu, bình luận dài, rất công phu và có giá trị: Dấu tích đảo Tây Sa (Paracels) trên lịch sử Việt Nam ta và giá trị
bản "Phủ Biên Tạp lục" (Tiếng Dân, số 1284, 23/7/1938) do Sử Bình Tử tức Huỳnh Thúc Kháng viết.
Trong bài báo này Cụ đề cập đến việc tranh chấp quần đảo Hoàng Sa đã trở nên nghiêm trọng: "Như trong bài báo
Tiếng Dân số trước đã nói, đảo Tây Sa là mấy hòn đảo con con làm nơi trú cho loài chim biển ở ngoài biển khơi,
không ai cần để ý đến, mà nhân cuộc Trung - Nhật chiến tranh trở nên một vấn đề nghiêm trọng trên trường quốc tế,
rõ là một điều không ngờ". Và Cụ khẳng định: "Theo các báo cáo ta gần đây sưu tập các tài liệu về đảo Tây Sa
để chứng minh thì đảo ấy là phần sở hữu của nước Nam ta, vì chính người Nam đã chiếm trước hết và đã kinh dinh
các công cuộc ở đảo ấy...".
Tiếng Dân số trước đã nói, đảo Tây Sa là mấy hòn đảo con con làm nơi trú cho loài chim biển ở ngoài biển khơi,
không ai cần để ý đến, mà nhân cuộc Trung - Nhật chiến tranh trở nên một vấn đề nghiêm trọng trên trường quốc tế,
rõ là một điều không ngờ". Và Cụ khẳng định: "Theo các báo cáo ta gần đây sưu tập các tài liệu về đảo Tây Sa
để chứng minh thì đảo ấy là phần sở hữu của nước Nam ta, vì chính người Nam đã chiếm trước hết và đã kinh dinh
các công cuộc ở đảo ấy...".
Bác Hồ, cụ Huỳnh Thúc Kháng trong Chính phủ đầu tiên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Cụ đã liệt kê các tài liệu phong phú: Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn, Đại Nam Nhất Thống Chí cả bản trước và bản
của Cao Xuân Dục soạn lại, Triều Chính Yếu Thực Lục của hai triều Gia Long-Minh Mạng, Lịch Triều Hiến Chương
của Phan Huy Chú hoặc Cống Hạ Ký Văn của Dương Quốc Dung, Mán Hình Thi Thoại và Đông Hành Thi Thuyết của
Lý Văn Thức, Biển Sử Cương Giám của Nguyễn Thông... trong đó đều đề cập đến Hoàng Sa và chủ quyền của nước ta
từ thời bấy giờ. Trong số đó Cụ Huỳnh nhấn mạnh giá trị của Phủ Biên Tạp Lục bởi sự khẳng định chuẩn xác các yếu
tố hành chính, địa lý, kinh tế, quân sự của một nhà khoa học uyên thâm. Qua bài báo "Dấu tích đảo Tây Sa (Parasels)
trong lịch sử Việt Nam ta và giá trị bản Phủ Biên Tạp Lục", trước hết Cụ Huỳnh nhấn mạnh vấn đề chủ quyền quần
đảo Hoàng Sa cần phải dựa vào các tài liệu chữ Hán làm minh chứng: "...chúng ta lại phát kiến một điều không ngờ
nữa là một mớ sách chữ Hán của tiền nhân ta lâu nay đã bỏ xó, lề hư bìa nát, phần đông nhất là bạn thanh niên, cho
đó là một thứ học mượn, thứ chữ chết, không cần đếm xỉa đến, nay nhân vấn đề đảo Tây Sa, trở thành món tài liệu
rất quý giá có quan hệ đến công pháp quốc tế không phải là ít".
của Cao Xuân Dục soạn lại, Triều Chính Yếu Thực Lục của hai triều Gia Long-Minh Mạng, Lịch Triều Hiến Chương
của Phan Huy Chú hoặc Cống Hạ Ký Văn của Dương Quốc Dung, Mán Hình Thi Thoại và Đông Hành Thi Thuyết của
Lý Văn Thức, Biển Sử Cương Giám của Nguyễn Thông... trong đó đều đề cập đến Hoàng Sa và chủ quyền của nước ta
từ thời bấy giờ. Trong số đó Cụ Huỳnh nhấn mạnh giá trị của Phủ Biên Tạp Lục bởi sự khẳng định chuẩn xác các yếu
tố hành chính, địa lý, kinh tế, quân sự của một nhà khoa học uyên thâm. Qua bài báo "Dấu tích đảo Tây Sa (Parasels)
trong lịch sử Việt Nam ta và giá trị bản Phủ Biên Tạp Lục", trước hết Cụ Huỳnh nhấn mạnh vấn đề chủ quyền quần
đảo Hoàng Sa cần phải dựa vào các tài liệu chữ Hán làm minh chứng: "...chúng ta lại phát kiến một điều không ngờ
nữa là một mớ sách chữ Hán của tiền nhân ta lâu nay đã bỏ xó, lề hư bìa nát, phần đông nhất là bạn thanh niên, cho
đó là một thứ học mượn, thứ chữ chết, không cần đếm xỉa đến, nay nhân vấn đề đảo Tây Sa, trở thành món tài liệu
rất quý giá có quan hệ đến công pháp quốc tế không phải là ít".
Từ đó Cụ dựa vào các tài liệu cổ sử để chứng minh đảo Hoàng Sa thuộc quyền quản lý của nước ta; cụ thể:
1. Trước hết Cụ dựa vào tài liệu Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Ðôn cuối đời Lê để viết: "... nơi phủ Quảng Ngãi,
huyện Bình Sơn, làng An Bình gần biển, ngoài biển có nhiều hòn đảo, trong đó có đảo Hoàng Sa dài ước 30 dặm
Rồi kể vật sản: yến sào,chim biển, ốc tai-ve, xà cừ, đồi mồi, hải sâm... Sử chép truyện Chúa Nguyễn có đặt đội
Hoàng Sa 70 suất thay phiên ra đảo lấy hải vật, đi 3 ngày đêm đến đảo, mỗi năm tháng 3 đi, tháng 8 về; lại
có chép sao biên bản của Thuyên Ðức Hậu là cai quản đội Hoàng Sa ấy, kể rõ mỗi năm nhặt được thiếc mấy cân,
vàng mấy hốt, đồi mồi, yến sào mấy cân, lại có khi nhặt được đồng khí, súng tiền... (những thứ có lẽ là đồ vật của
những chiếc tàu chìm đây đó). Ðến giá trị nhất là tờ công văn của Quan Chánh Ðường quan huyện Văn Xương, phủ
Huỳnh Châu (Trung Hoa) gửi sang Chúa Nguyễn ở Thuận Hóa khi hộ tống hai tên trong đội Hoàng Sa bị phiêu bạt
sang đây; trong "Thuận Hóa", công văn có chép: "Năm Càn Long thứ 19 (1754, triều Hiến Võ năm thứ 17) tên quân đội
Cát Vàng, người làng An Bình, huyện Chương Mỹ, phủ Quảng Ngãi, nước An Nam, ngày tháng 7 đi ra Vạn Lý
Trường Sa tìm nhặt các hải vật, 8 tên lên bờ tìm nhặt để hai tên lại giữ thuyền, rủi bị trận bão, đứt dây neo,
thuyền trôi dạt vào bãi biển Tàu, viên huyện Văn Xương cho thuyền về xứ, chúa Nguyễn Thuận Hóa truyền cai bạ
Thức Lượng Hầu làm thư phúc đáp".
huyện Bình Sơn, làng An Bình gần biển, ngoài biển có nhiều hòn đảo, trong đó có đảo Hoàng Sa dài ước 30 dặm
Rồi kể vật sản: yến sào,chim biển, ốc tai-ve, xà cừ, đồi mồi, hải sâm... Sử chép truyện Chúa Nguyễn có đặt đội
Hoàng Sa 70 suất thay phiên ra đảo lấy hải vật, đi 3 ngày đêm đến đảo, mỗi năm tháng 3 đi, tháng 8 về; lại
có chép sao biên bản của Thuyên Ðức Hậu là cai quản đội Hoàng Sa ấy, kể rõ mỗi năm nhặt được thiếc mấy cân,
vàng mấy hốt, đồi mồi, yến sào mấy cân, lại có khi nhặt được đồng khí, súng tiền... (những thứ có lẽ là đồ vật của
những chiếc tàu chìm đây đó). Ðến giá trị nhất là tờ công văn của Quan Chánh Ðường quan huyện Văn Xương, phủ
Huỳnh Châu (Trung Hoa) gửi sang Chúa Nguyễn ở Thuận Hóa khi hộ tống hai tên trong đội Hoàng Sa bị phiêu bạt
sang đây; trong "Thuận Hóa", công văn có chép: "Năm Càn Long thứ 19 (1754, triều Hiến Võ năm thứ 17) tên quân đội
Cát Vàng, người làng An Bình, huyện Chương Mỹ, phủ Quảng Ngãi, nước An Nam, ngày tháng 7 đi ra Vạn Lý
Trường Sa tìm nhặt các hải vật, 8 tên lên bờ tìm nhặt để hai tên lại giữ thuyền, rủi bị trận bão, đứt dây neo,
thuyền trôi dạt vào bãi biển Tàu, viên huyện Văn Xương cho thuyền về xứ, chúa Nguyễn Thuận Hóa truyền cai bạ
Thức Lượng Hầu làm thư phúc đáp".
2. Dựa theo Lịch Triều Hiến Chương của Phan Huy Chú, Cụ viết: "Cống Hạ Ký Văn của cụ Dương Quốc Dung dưới mục
Phong Vực có nhắc đến... ngoài phần biển Quảng Ngãi có đảo Hoàng Sa từ cửa biển Sa Kỳ đi hướng đông, 3 ngày đêm
thì đến nơi, cồn cát nơi đứt nơi nối, vài mươi dặm không sao kể hết, dấu người ít đến".
Phong Vực có nhắc đến... ngoài phần biển Quảng Ngãi có đảo Hoàng Sa từ cửa biển Sa Kỳ đi hướng đông, 3 ngày đêm
thì đến nơi, cồn cát nơi đứt nơi nối, vài mươi dặm không sao kể hết, dấu người ít đến".
3. Cụ dựa vào Mán Hình Thi Thoại và Ðông Hành Thi Thuyết của cụ Lý Văn Thức ghi lại trong những chuyến đi
Trung Quốc và Lucon (Philippines): Năm Minh Mạng thứ 12 (1831), Cụ đi Phúc Kiến có chép: "Thuyền đi về bến hữu,
nơi gọi là "Vạn Lý Thạch Ðường" đều là cát vàng (Hoàng Sa) cũng gọi là "Vạn Lý Trường Sa"; Cụ có bài thi có câu:
Vạn Lý Trường Sa bí tuyệt hiểm Thất châu cuồng lăng nhạ oan hào. Năm Minh Mạng thứ 13 (1832) Cụ lại đi
Lữ Tống (Lucon) đảo Phi Luật Tân hồi đó thuộc Tây Ban Nha. Thuyền từ Quảng Ngãi đi theo hướng đông,
bị gió lạc vào vùng Vạn Lý Trường Sa, Cụ có bài dẫn nói: Một chòm đảo cát nổi lên giữa biển, phía tây là biển
Quảng Ngãi, phía bắc tiếp biển Quảng Ðông, Phúc Kiến, phía đông tiếp biển Lữ Tống, phía nam thì kéo dài...
là một nơi tuyệt hiểm có thuyền bè.
Trung Quốc và Lucon (Philippines): Năm Minh Mạng thứ 12 (1831), Cụ đi Phúc Kiến có chép: "Thuyền đi về bến hữu,
nơi gọi là "Vạn Lý Thạch Ðường" đều là cát vàng (Hoàng Sa) cũng gọi là "Vạn Lý Trường Sa"; Cụ có bài thi có câu:
Vạn Lý Trường Sa bí tuyệt hiểm Thất châu cuồng lăng nhạ oan hào. Năm Minh Mạng thứ 13 (1832) Cụ lại đi
Lữ Tống (Lucon) đảo Phi Luật Tân hồi đó thuộc Tây Ban Nha. Thuyền từ Quảng Ngãi đi theo hướng đông,
bị gió lạc vào vùng Vạn Lý Trường Sa, Cụ có bài dẫn nói: Một chòm đảo cát nổi lên giữa biển, phía tây là biển
Quảng Ngãi, phía bắc tiếp biển Quảng Ðông, Phúc Kiến, phía đông tiếp biển Lữ Tống, phía nam thì kéo dài...
là một nơi tuyệt hiểm có thuyền bè.
4. Tiếp đến Cụ dẫn Ðại Nam Nhất Thống Chí cả bản trước và bản của cụ Cao Xuân Dục mới soạn lại và bản
Triều Chính Yếu Thực Lục cả tiền triều và triều Minh Mạng, bản Biển Sử Cương Giám của Nguyễn Thông
để minh chứng: Đảo Tây Sa là phần sở hữu của nước Nam ta, vì chính người Nam đã chiếm trước hết và đã
kinh dinh các công cuộc ở đảo ấy...
Triều Chính Yếu Thực Lục cả tiền triều và triều Minh Mạng, bản Biển Sử Cương Giám của Nguyễn Thông
để minh chứng: Đảo Tây Sa là phần sở hữu của nước Nam ta, vì chính người Nam đã chiếm trước hết và đã
kinh dinh các công cuộc ở đảo ấy...
Như vậy, theo Cụ Huỳnh Thúc Kháng, về vấn đề chủ quyền quần đảo Hoàng Sa cần phải chú ý đến các yếu tố sau đây:
1. Vấn đề tranh chấp quần đảo Hoàng Sa đã diễn ra từ cuối những năm 40 của thế kỷ XX.
2. Quốc gia nào có đầy đủ các bằng chứng, cứ liệu sớm về phân thư, chúc thư, luật điền thổ - lập nghiệp của tiền nhân
để lại, cũng như các thư tịch cổ khẳng định chủ quyền của quần đảo này thì quốc gia đó có luận cứ khoa học khẳng định
chủ quyền quần đảo Hoàng Sa thuộc về mình.
để lại, cũng như các thư tịch cổ khẳng định chủ quyền của quần đảo này thì quốc gia đó có luận cứ khoa học khẳng định
chủ quyền quần đảo Hoàng Sa thuộc về mình.
3. Cần sử dụng các tư liệu Hán Nôm, các tài liệu thuộc về thư tịch cổ để tìm cơ sở khoa học cho chủ quyền quần đảo
Hoàng Sa thuộc về Việt Nam đã từ lâu.
Hoàng Sa thuộc về Việt Nam đã từ lâu.
4. Cần chú ý nghiên cứu triều Nguyễn về vấn đề bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia, đặc biệt là biên giới biển đảo.
5. Trong tất cả các tài liệu cổ, tác phẩm Phủ biên Tạp lục của Lê Quý Đôn là tài liệu có giá trị nhất về chủ quyền
quần đảo Hoàng Sa đối với Việt Nam.
quần đảo Hoàng Sa đối với Việt Nam.
65 năm trôi qua nhưng những trăn trở, suy nghĩ, những lời răn dạy của Cụ Huỳnh Thúc Kháng về đất nước, về
chủ quyền biển đảo vẫn còn nguyên giá trị lịch sử. Nhớ về Cụ, chúng ta không chỉ nhớ về một con người
"không cần danh vị, không cần lợi lộc, không thèm giàu sang" chỉ "phấn đấu cho dân được tự do, nước được độc lập"
; nhớ lại những bút tích của cụ về chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, ta lại càng thấm thía hơn đạo đức, nhân cách
và trách nhiệm của Cụ đối với dân tộc và đất nước.
chủ quyền biển đảo vẫn còn nguyên giá trị lịch sử. Nhớ về Cụ, chúng ta không chỉ nhớ về một con người
"không cần danh vị, không cần lợi lộc, không thèm giàu sang" chỉ "phấn đấu cho dân được tự do, nước được độc lập"
; nhớ lại những bút tích của cụ về chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, ta lại càng thấm thía hơn đạo đức, nhân cách
và trách nhiệm của Cụ đối với dân tộc và đất nước.
Theo PGS.TS Nguyễn Văn Mạnh
ĐH Khoa học Huế
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét